Khoa Lịch sử: "Nửa thế kỷ xây dựng và phát triển"

Thứ năm - 22/04/2010 18:15
Ngày 13 tháng 11 năm 2000, tập thể khoa Lịch sử, trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội được Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trao tặng danh hiệu cao quý Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới. Đó là sự ghi nhận những đóng góp to lớn của các nhà giáo - nhà sử học, của các cán bộ viên chức và sinh viên toàn khoa trong đào tạo và nghiên cứu khoa học, trong phục vụ thực tiễn công cuộc đổi mới và phát triển đất nước thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

KHOA LỊCH SỬ
NỬA THẾ KỶ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN
(Lời bình cho phim Khoa Lịch sử - nửa thế kỷ xây dựng và phát triển
xây dựng nhân kỷ niệm 50 năm thành lập Khoa - 11.2006)
                                                                                                                            PGS.TS Vũ Văn Quân
 
1. Ngày 13 tháng 11 năm 2000, tập thể khoa Lịch sử, trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội được Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trao tặng danh hiệu cao quý Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới. Đó là sự ghi nhận những đóng góp to lớn của các nhà giáo - nhà sử học, của các cán bộ viên chức và sinh viên toàn khoa trong đào tạo và nghiên cứu khoa học, trong phục vụ thực tiễn công cuộc đổi mới và phát triển đất nước thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Nhiều đơn vị và cá nhân trong Khoa cũng đã được Nhà nước trao tặng các phần thưởng cao quý: Huân chương lao động các hạng nhất, nhì, ba cho tập thể Khoa, Huân chương lao động hạng ba cho các bộ môn như Lịch sử Việt Nam Cổ trung đại, Lịch sử Việt Nam Cận hiện đại, Nhân học... ; Huân chương lao động hạng nhất, nhì, ba cho cá nhân như các GS Đinh Xuân Lâm, Phan Huy Lê, Hà Văn Tấn, Trần Quốc Vượng, Phan Đại Doãn, Vũ Dương Ninh; các PGS Lê Mậu Hãn, Hoàng Văn Khoán, Hán Văn Khẩn, Nguyễn Thừa Hỷ... Và nhiều Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, của Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội. Những danh hiệu cao quý này vừa là sự ghi nhận của Đảng và Nhà nước đối những đóng góp của các tập thể, cá nhân, vừa là động lực và trách nhiệm để toàn khoa cũng như từng thầy cô giáo tiếp tục phấn đấu vươn lên xứng đáng với truyền thống tốt đẹp của một đơn vị đào tạo và nghiên cứu khoa học đã có bề dày năm mươi năm xây dựng và phát triển.
2. Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” đã kết thúc thắng lợi cuộc trường kỳ chống thực dân Pháp chín năm. Ngày 10 tháng 10 năm 1954, Hà Nội được giải phóng. Tiếp sau các đoàn quân tiến về tiếp quản Thủ đô, các cơ sở giáo dục và đào tạo ra đời và hoạt động trong thời kỳ kháng chiến cũng lần lượt chuyển về Hà Nội. Trong bộn bề khó khăn những ngày mới giải phóng, Đảng, Nhà nước và Hồ Chủ tịch vẫn đặc biệt quan tâm đến sự phát triển của nền giáo dục đại học. Hai năm sau ngày tiếp quản, vào năm 1956, một loạt các trường đại học đã được thành lập tại Thủ đô Hà Nội, trong đó có Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội - tiền thân của Đại học Quốc gia Hà Nội ngày nay.
Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội được thành lập theo Quyết định số 2138/TC ngày 4-6-1956 của Thủ tướng Chính phủ. GS Ngụy Như­ Kon Tum được bổ nhiệm làm Giám đốc đầu tiên. Ban đầu, Trường chỉ có hai ban là Ban Khoa học và Ban Văn khoa. Ban Văn khoa gồm hai bộ phận t­ương đối độc lập là Văn và Sử do GS Trần Đức Thảo phụ trách chung. Một thời gian ngắn sau đó, ngay trong năm 1956, Ban Văn khoa được chia thành hai khoa là Văn học và Lịch sử. Khoa Lịch sử chính thức ra đời từ đây, trở thành một trong bốn khoa đầu tiên của Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Đó là một sự kiện có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với nền sử học Việt Nam hiện đại. Từ đây, những tên tuổi lớn, những tác phẩm lớn, những lớp lớp cử nhân được đào tạo góp phần to lớn vào công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
            Những ngày đầu mới thành lập, Khoa Lịch sử cũng như Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội đứng trước muôn vàn khó khăn vất vả: cơ sở vật chất thiếu thốn, giáo trình, tài liệu tham khảo khan hiếm... Bù lại, trong những ngày đầu xây nền đắp móng này, Khoa có được một đội ngũ các nhà khoa học tài năng và vô cùng tâm huyết với sự phát triển của Khoa và của cả nền sử học nước nhà. Đó là các giáo sư Trần Đức Thảo, Đào Duy Anh, Trần Văn Giầu. Dưới sự dẫn dắt của các thầy, lớp cán bộ trẻ đầu tiên của Khoa đã nhanh chóng trưởng thành, từng bước đảm nhiệm việc giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Trong số đó, nổi bật lên để rồi trở thành những tên tuổi lớn của nền sử học và khoa học xã hội nhân văn Việt Nam hiện đại là tứ trụ Lâm - Lê - Tấn - Vượng. Các thầy trở thành những hạt nhân, thành nhân tố hợp lực của toàn Khoa trong suốt chặng đường nửa thế kỷ dựng xây và cống hiến.
            Năm 1959, lớp sinh viên đầu tiên của Khoa tốt nghiệp. Nhiều người trong số đó được giữ lại làm cán bộ giảng dạy. Thật kỳ lạ, chính trong nhưng tháng ngày đầu tiên nhiều khó khăn thiếu thốn đó, lớp sinh viên đầu tiên này đã nỗ lực vươn lên, nhiều người sau này trở những nhà sử học tên tuổi như các GS Vũ Dương Ninh, Phan Đại Doãn, Trịnh Nhu ; các PGS Lê Mậu Hãn, Phạm Thị Tâm, Nguyễn Thừa Hỷ, Lê Văn Lan...     
3. Giữa những năm sáu mươi, cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta bước vào giai đoạn gay go quyết liệt. Đế quốc Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc. Cùng với các đơn vị của Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, Khoa Lịch sử phải tạm xa nhà trường sơ tán về Đại Từ (Thái Nguyên), về Vạn Thắng (Ba Vì, Hà Tây). Đó thực sự là những tháng ngày thử thách đối với thầy và trò khoa Lịch sử. Nhưng đó cũng là những tháng ngày thấm đượm tình đồng chí đồng bào. Trong điều kiện vật chất nhiều khó khăn thiếu thốn, cán bộ và nhân dân các địa phương đã giành cho thầy và trò Khoa Lịch sử những tình cảm thật đầm ấm, xẻ chia từng hạt lúa, củ khoai... Trong tâm khảm những người đã từng công tác, học tập ở nơi sơ tán những ngày chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ mãi mãi in đậm những kỷ niệm không thể lạt phai...
Đáp lời kêu gọi của non sông, nhiều lớp cán bộ và sinh viên Khoa Lịch sử đã tạm xa giảng đường, tạm xa mái trường thân yêu lên đường nhập ngũ, chiến đấu trên khắp các chiến trường miền Nam hay canh giữ đất trời Tổ quốc nơi miền biên ải xã xôi. Nhiều người đã vĩnh viễn nằm lại trên các chiến trường. Chỉ tính riêng một Khoá 15, đã có 5 sinh viên Khoa Lịch sử hy sinh. Những tấm gương hy sinh anh dũng của cán bộ và sinh viên Khoa Lịch sử, máu xương của thầy và trò Khoa Lịch sử đã góp phần xứng đáng vào sự nghiệp chung của toàn dân tộc, là một trong những trang hào hùng nhất của Khoa Lịch sử anh hùng. Thầy giáo - nhà thơ Ca Lê Hiến (tức Lê Anh Xuân) - người nghệ sĩ đã tạc nên tượng đài sừng sững Dáng đứng Việt Nam thế kỷ XX, cũng là người bằng chính máu xương của mình đã tạc vào tâm khảm lớp lớp thế hệ cán bộ và sinh viên Khoa Lịch sử mẫu mực về đức hy sinh, về tình yêu quê hương đất nước, về lý tưởng và lẽ sống.
Chính trong những tháng ngày nhiều gian khó của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Khoa Lịch sử vẫn không ngừng phát triển. Từ các bộ môn ra đời trong những năm đầu mới thành lập (như Lịch sử Việt Nam Cổ trung đại, Lịch sử Việt Nam Cận hiện đại, Lịch sử Thế giới), cuối những năm sáu mưới đầu bẩy mươi có thêm các bộ môn Khảo cổ học, Dân tộc học, Lưu trữ học, Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Số lượng cán bộ không ngừng được tăng cường, bổ sung chủ yếu từ nguồn sinh viên tốt nghiệp xuất sắc của Khoa. Một số thầy cô giáo được cử đi đào tạo ở nước ngoài, trở thành những Phó tiến sĩ sử học đầu tiên.
4. Ngày 30 tháng 4 năm 1975, chiến dịch lịch sử Hồ Chí Minh toàn thắng kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đất nước thống nhất bắt tay vào công cuộc dựng xây mới. Nhiều thầy giáo, cô giáo của Khoa Lịch sử đã lên đường chi viện cho một số trường đại học phía nam, như Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Lạt, Huế... Các thầy cô vừa là người trực tiếp giảng dạy, vừa góp phần bồi dưỡng và xây dựng đội ngũ cán bộ cho các trường đại học này.
Đội ngũ cán bộ giảng dạy của Khoa vẫn tăng lên không ngừng về số lượng và chất lượng. Một số bộ môn mới được thành lập như Phương pháp luận sử học (nay là bộ môn Lý luận sử học), Lịch sử phong trào cộng sản và công nhân quốc tế...
Những khó khăn chống chất của đất nước từ sau ngày giải phóng miền Nam đã không làm nản lòng các thầy cô giáo, các cán bộ nhân viên và sinh viên Khoa Lịch sử. Trái lại, trong khó khăn gian khổ, thầy và trò Khoa Lịch sử càng có dịp thể hiện và rèn luyện nhiều phẩm chất quý giá. Đó là lòng yêu nghề, ý thức trước trách nhiệm được giao phó.  
            5. Đường lối Đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo đã đưa đất nước từng bước vượt qua khủng hoảng, từng bước phát triển, đạt được những thành tựu vô cùng to lớn. Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội nói chung, Khoa Lịch sử nói riêng cũng bước vào một giai đoạn phát triển mới. Năm 1995, Đại học Quốc gia Hà Nội ra đời trên cơ sở Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, trong đó có Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn. Trước yêu cầu phát triển của nhà trường, một số khoa mới đã được thành lập, trong đó có những khoa vốn từng là những chuyên ngành đào tạo thử nghiệm của Khoa Lịch sử. Bộ môn Lưu trữ học tách thành Khoa Lưu trữ học và quản trị văn phòng. Một số thầy cô giáo của Khoa Lịch sử chuyển sang xây dựng Khoa Quốc tế học, Đông phương học, Du lịch học, trở thành những chủ nhiệm khoa đầu tiên, những nòng.cốt của các khoa này. Trước đòi hỏi của của khoa học và thực tiễn, năm 1998 Khoa lập thêm bộ môn Lịch sử văn hoá Việt Nam (nay là bộ môn Văn hoá học).
            Hiện nay, Khoa Lịch sử có 43 cán bộ, 8 bộ môn, hai trung tâm, một tổ chuyên môn. Đó là các bộ môn Lịch sử Việt Nam Cổ trung đại, Lịch sử Việt Nam Cận hiện đại, Lịch sử Thế giới, Khảo cổ học, Dân tộc học, Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Lý luận sử học, Văn hoá học; các trung tâm Liên văn hoá, Nghiên cứu và phát triển nông thôn; và tổ Văn phòng - Tư liệu. Khoa cũng phối hợp chặt chẽ với nhà trường trong việc xây dựng Bảo tàng Nhân học.
            6. Một vấn đề chiến lược được Khoa Lịch sử xác định ngay từ đầu là kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo và nghiên cứu khoa học. Trên tinh thần đó, hoạt động nghiên cứu khoa học được các cán bộ trong Khoa xác định là nhiệm vụ trọng tâm. Tính đến nay đã có trên bốn nghìn công trình nghiên cứu khoa học của các thầy cô giáo trong Khoa được công bố trong nửa thế kỷ qua - một con số mà không một đơn vị đào tạo và nghiên cứu sử học nào trên cả nước có thể sách kịp. Đó là các giáo trình, các công trình chuyên khảo, là luận văn đăng trên các tạp chí khoa học chuyên ngành, cả trong nươc và ngoài nước.
            Trước hết phải kể đến là những công trình mang ý nghĩa nền móng được biên soạn ngay những ngày đầu mới thành lập Khoa, như Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến cuối thế kỷ XIX, Nguồn gốc dân tộc Việt Nam của Đào Duy Anh, Lịch sử­ Việt Nam thời kỳ 1897- 1914, Lịch s­ử Việt Nam cận đại của Trần Văn Giàu, Đinh Xuân Lâm, Nguyên Văn Sự, Chế độ ruộng đất và kinh tế nông nghiệp thời Lê sơ của Phan Huy Lê, Sơ yếu khảo cổ học nguyên thuỷ Việt Nam  của Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn và đặc biệt là bộ Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam đồ sộ gồm 3 tập.
            Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, các cán bộ của Khoa tập trung nghiên cứu về các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm trong lịch sử nhằm làm sáng tỏ những truyền thống vẻ vang của dân tộc, động viên và khích lệ tinh thần yêu nước của bộ đội và nhân dân. Kết quả, một loạt các công trình nghiên cứu đã được hoàn thành, có giá trị khoa học và thực tiễn lớn lao như Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông ở thế kỷ XIII của Hà Văn Tấn - Phạm Thị Tâm, Khởi nghĩa Lam Sơn của Phan Huy Lê - Phan Đại Doãn, Một số trận quyết chiến chiến lược trong lịch sử dân tộc...
            Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất và đi lên chủ nghĩa xã hội, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đã đặt ra những nhiệm vụ mới cho sử học Việt Nam nói chung, cho Khoa Lịch sử nói riêng. Trọng tâm nghiên cứu tập trung vào các vấn đề về quản lý đất nước, về kinh tế - xã hội, về văn hoá, về hội nhập quốc tế và khu vực.
            Những bộ giáo trình về Lịch sử Việt Nam, Lịch sử thế giới, Cơ sở khảo cổ học, Dân tộc học đại cương do các thầy cô giáo Khoa Lịch sử biên soạn, được tái bản nhiều lần, không chỉ là tài liệu học tập cho sinh viên trong Khoa, mà còn được sử dụng rộng rãi trong nhà trường và trênphạm vi toàn quốc, được các nhà khoa học và sinh viên đánh gia cao. Hàng loạt giáo trình chuyên đề cũng đã được xuất bản phục vụ công tác đào tạo. Bộ Lịch sử Việt Nam bốn tập cũng đã được hoàn thành và xuất bản nay mai.
            Khoa Lịch sử cũng đã và đang triển khai nhiều đề tài nghiên cứu khoa học các cấp. Trong đó có nhiều đề tài cấp Nhà nước như Các giá trị truyền thống và con người Việt Nam hiện nay; Thiết chế chính trị xã hội nông thôn Việt Nam; Tư tưởng đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh; Lịch sử Chính phủ Việt Nam, Lịch sử và hiện trạng hệ thống chính trị ở Việt Nam; Luận cứ khoa học và những giải pháp thực tiễn tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân ở nước ta hiện nay; Lãnh thổ phía Nam và biên giới Tây Nam trong lịch sử, Lịch sử chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa... Khoa cũng đang đảm nhiệm một số chương trình nghiên cứu khoa học hướng tới kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội.
            Định hướng nghiên cứu khoa học của Khoa Lịch sử trong thời gian tới sẽ tập trung vào năm chủ đề lớn: về lịch sử vùng đất phía nam, nhất là Nam Bộ, về đô thị và quá trình đô thị hoá ở Việt Nam, về các vùng văn hoá, các không gian văn hoá và mối giao lưu văn hoá trong nước và quốc tế; về các mối quan hệ và quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông; về mối quan hệ quốc tế, quá trình hội nhập và con đường phát triển đặc thù của Việt Nam.   
            Những thành tựu nghiên cứu khoa học của các cán bộ trong Khoa được ghi nhận qua các giải thưởng trong nước và quốc tế. Các giáo sư Trần Đức Thảo, Đào Duy Anh, Trần Văn Giầu, Hà Văn Tấn được nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học và công nghệ, giáo sư Phan Huy Lê được nhận Giải thưởng Văn hoá châu Á của Nhật Bản, các giáo sư Phan Đại Doãn, Phan Hữu Dật được nhận Giải thưởng Nhà nước về khoa học và công nghệ, các giáo sư Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Phạm Thị Tâm được nhận giải thưởng công trình nghiên cứu khoa học tiêu biểu của Đại học Quốc gia Hà Nội.
            Những tấm gương đam mê nghiên cứu khoa học của các thầy cô giáo Khoa Lịch sử sẽ mãi được các thế hệ cán bộ và sinh viên noi theo. Giáo sư Hà Văn Tấn, Giáo sư Phan Đại Doãn mặc dù nhiều năm nay bệnh nặng nhưng vẫn miệt mài, vẫn đều đặn có những công trình mới được công bố. Giáo sư Trần Quốc Vượng những ngày trọng bệnh vẫn không rời cây bút...  
7. Qua nửa thế kỷ, Khoa Lịch sử đã đào tạo được trên năm nghìn cử nhân sử học các hệ, trên 150 thạc sĩ, gần 90 tiến sĩ. Sinh viên tốt nghiệp Khoa Lịch sử có mặt trên khắp mọi miền đất nước, đảm nhiệm nhiều lĩnh vực công tác. Trong bất kỳ cương vị nào, các cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ Khoa Lịch sử cũng thể hiện tốt năng lực, phẩm chất, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Nhiều người đã và đang đảm nhiệm những vị trí chủ chốt ở các địa phương và Trung ương, trong các cơ quan Đảng, Chính quyền.
Hiện nay, Khoa Lịch sử vừa đào tạo hệ chuẩn (khoảng 100 sinh viên), hệ chất lượng cao (khoảng 20 sinh viên), hệ sư phạm (khoảng 50 sinh viên). Hàng năm Khoa được phép tuyển sinh khoảng 50 học viên cao học, hàng chục nghiên cứu sinh. Khoa Lịch sử là đơn vị hàng đầu của cả nước về đào tạo, với đầy đủ các cấp học, từ đại học đến nghiên cứu sinh, đủ các chuyên ngành đào tạo của khoa học lịch sử.  
Trong giảng dạy, các cán bộ của Khoa Lịch sử luôn cố gắng cập nhật kiến thức, theo sát các vấn đề thời sự của sử học Việt Nam và thế giới. Những năm gần đây, nhiều cán bộ của Khoa đã tích cực đổi mới phương pháp, ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy. Các bài giảng đều đã được biên soạn lại, được trình chiếu bằng powerpoint, hạn chế được tình trạng thầy nói trò chép, tăng thời lượng thảo luận. Hàng năm, sinh viên đều được đi thực tập thực tế. Nhờ đó, chất lượng đào tạo không ngừng được nâng cao. Khoa cũng đang tích cực cùng với nhà trường và Đại học Quốc gia Hà Nội chuẩn bị các điều kiện, sẵn sàng chuyển đổi sang hình thức đào tạo tín chỉ.
            Nhiều thầy cô giáo trong Khoa được Nhà nước phong tặng danh hiệu Nhà giáo nhân dân, nhà giáo ưu tú là sự ghi nhận những thành tựu đào tạo của Khoa Lịch sử nói chung. Đó là các nhà giáo nhân dân Trần Văn Giầu, Đinh Xuân Lâm, Phan Huy Lê, Hà Văn Tấn, Lê Mậu Hãn, Phan Đại Doãn, Vũ Dương Ninh, các nhà giáo ưu tú Trần Quốc Vượng, Phan Hữu Dật, Hán Văn Khẩn, Hoàng Văn Khoán, Nguyễn Quốc Hùng, Nguyễn Văn Hồng, Vương Đình Quyền, Nguyễn Thừa Hỷ, Nguyễn Văn Hàm, Phùng Hữu Phú, Vũ Minh Giang, Nguyễn Quang Ngọc, Nguyễn Van Khánh.
            8. Khoa Lịch sử cũng là đơn vị có quan hệ hợp tác quốc tế rộng rãi về đào tạo và nghiên cứu khoa học. Khoa đã và đang có quan hệ với nhiều trường đại học, viện nghiên cứu của các nước như Pháp, Đức, Hà Lan, Nga, Úc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Thái Lan... Nhiều cán bộ và sinh viên của Khoa được tu nghiệp, được đào tạo ở nước ngoài, nhiều học giả, sinh viên nước ngoài cũng đẫ đến Khoa trao đổi học thuật và học tập là kết quả tốt đẹp của sự hợp tác này. Khoa cũng đã hợp tác tốt với các trường đại học, các viện nghiên cứu nước ngoài triển khai nhiều hội thảo quốc tế, nhiều chương trình nghiên cứu khoa học.
            9.Trong nửa thế kỷ qua, làm nên một Khoa Lịch sử anh hùng, là đóng góp của lớp lớp các thế hệ thầy cô giáo, viên chức, sinh viên, học viên cao học, nghiên cứu sinh. Trong số đó, có người được lưu tên trong sử sách, nhưng cũng có rất nhiều người, mãi mãi chỉ là những cống hiến thầm lặng.
Khoa Lịch sử - và cả nền khoa học xã hội và nhăn văn Việt Nam hiện đại, mãi mãi ghi ơn công lao của thế hệ các thầy giáo xây nền đắp móng. Đó là Giáo sư, nhà triết học lớn Trần Đức Thảo; là Giáo sư, nhà sử học lớn, nhà văn hoá lớn Đào Duy Anh; là Giáo sư, nhà sử học lớn, nhà cách mạng lớn Trần Văn Giầu. Tuy các thầy chỉ công tác ở Khoa Lịch sử một thời gian ngắn, nhưng bằng tài năng và nhân cách, các thầy không chỉ là những người gây dựng nền móng đầu tiên cho Khoa, mà còn có ảnh hưởng to lớn đến các thế hệ cán bộ và sinh viên sau này.
            Khoa Lịch sử và cả nền sử học Việt Nam hiện đại tự hào về một thế hệ vàng “tứ trụ Lâm Lê Tấn Vượng” - các giáo sư Đinh Xuân Lâm, Phan Huy Lê, Hà Văn Tấn, Trần Quốc Vượng. Là học trò trực tiếp của các giáo sư Trần Đức Thảo, Đào Duy Anh, Trần Văn Giầu, ngay từ cuối những năm năm mươi, những thầy giáo trẻ mà phần lớn mới ở độ tuổi ngoài đôi mươi này, đã gồng mình lên để chỉ trong một thời gian ngắn hoàn thành những công việc lớn: dịch Đại Việt sử lược, hiệu đính Dư địa chí, Quân trung từ mệnh tập, viết Chế độ ruộng đất, kinh tế nông nghiệp thời Lê sơ và đặc biệt là Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam - bộ giáo trình từng là tài liệu học tập chính thức của sinh viên Khoa Lịch sử và nhiều cơ sở đào tạo khác trong nhiều chục năm. Sức làm việc, sức viết của các thầy cứ tăng lên theo thời gian, cho đến tận hôm nay vẫn không hề giảm sút. Trong số hơn bốn nghìn công trình được xuất bản của cán bộ Khoa Lịch sử trong nửa thế kỷ qua, hơn một phần tư là của “tứ trụ”. Tài năng là bẩm sinh, nhưng đam mê và mồ hôi nước mắt mới là mấu chốt của thành công.
            Nửa thế kỷ Khoa Lịch sử xin được thắp nén tâm nhang đến những thầy cô, những cán bộ nhân viên nay đã khuất, đến những thầy giáo, những sinh viên đã anh dũng hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc. Những tấm gương người thầy - nhà khoa học, những tấm gương trách nhiệm công dân trước dân, trước nước của các thế hệ đi trước sẽ mãi mãi toả sáng, truyền trao trong lớp lớp cán bộ, sinh viên Khoa Lịch sử hôm nay và mai sau.
            Khoa Lịch sử năm mươi năm xây dựng và phát triển - tròn một nửa thế kỷ đã trôi qua. Chúng ta đã làm được nhiều việc lớn và chúng ta sẽ tiếp tục làm được nhiều việc lớn trong chặng đường tiếp theo. Những truyền thống tốt đẹp của Khoa được xây đắp trong nửa thế kỷ qua sẽ mãi được gìn giữ, phát huy, trở thành nội lực, niềm tin và sức mạnh để thầy và trò Khoa Lịch sử tiếp tục vươn lên xứng đáng là với danh hiệu Anh hùng mà Nhà nước đã trao tặng.     

 

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

_KLS_ TuyensinhSDH
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây