Cương lĩnh chính trị là cơ sở để vạch ra các mục tiêu, nhiệm vụ, xác định chủ trương, biện pháp tập hợp lực lượng và tổ chức đấu tranh thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ chính trị cụ thể thích ứng với điều kiện và tình thế chính trị của mỗi giai đoạn đấu tranh chính trị[1]. Đảng Cộng sản Việt Nam từ ngày thành lập đến nay đã có bốn cương lĩnh chính trị (kể cả Cương lính bổ sung, phát triển năm 2011), một cương lĩnh ruộng đất và một số văn kiện khác có tính cương lĩnh về văn hóa, về quân sự...
Các cương lĩnh chính trị của Đảng có mối liên hệ kế thừa và phát triển triển theo hướng càng ngày càng hoàn chỉnh và đầy đủ hơn. Tuy nhiên, lâu nay có một số ý kiến cho rằng giữa Chánh cương vắn tắt và Luận cương chánh trị của Đảng năm 1930 có mâu thuẫn với nhau, cái sau phê phán cái trước và thụt lùi so với cái trước. Để góp phần làm rõ vấn đề này, chúng tôi trình bày mối liên hệ giữa hai văn kiện ấy qua sáu phương diện có tính chất chung, cơ bản là: 1) Mục đích và đường lối chiến lược; 2) Nhiệm vụ chiến lược; 3) Lực lượng cách mạng chủ yếu; 4) Giai cấp lãnh đạo; 5) Phương pháp cách mạng; 6) Quan hệ đồng minh quốc tế.
1.1. Về mục đích và đường lối chiến lược
Hiểu theo nghĩa đơn giản, cương lĩnh là văn bản xác định mục đích chiến lược và con đường đi tới mục đích ấy (cương là dây, lĩnh là đỉnh). Chánh cương vắn tắt và Luận cương chánh trị đều có mục đích như nhau, đều chủ trương đưa cách mạng phát triển trải qua hai giai đoạn: cách mạng tư sản kiểu mới và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cách mạng tư sản kiểu mới hay cách mạng tư sản dân quyền có mục đích là đánh đổ đế quốc, phong kiến, giành độc lập dân tộc và dựng nên chính quyền dân chủ, đưa ruộng đất cho dân cày. Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng kế tiếp cách mạng tư sản dân quyền, có mục đích là xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản để giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Chánh cương vắn tắt ghi: Đảng “chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm cho nước Nâm được hoàn toàn độc lập. Dựng ra chính phủ công nông binh... Thâu hết sản nghiệp lớn… của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính phủ công nông binh quản lý. Thâu hết ruộng đất của đề quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo”[2]. Luận cương chánh trị ghi: “Trong lúc đầu, cuộc cách mạng Đông Dương sẽ là một cuộc cách mạng tư sản dân quyền… Tư sản dân quyền cách mạng là thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng. Tư sản dân quyền cách mạng được thắng lợi, chánh phủ công nông đã dựng lên rồi, thì công nghiệp được phát triển, các tổ chức vô sản được thêm mạnh… xứ Đông Dương sẽ nhờ vô sản giai cấp chuyên chánh các nước giúp sức cho mà phát triển, bỏ qua thời kỳ tư bổn mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa”[3].
Nghĩa là tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là cốt lõi của cả hai cương lĩnh chứ không chỉ ở riêng của một cương lĩnh nào.
Tuy nhiên, cả hai cương lĩnh và cả trong Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng của Nguyễn Ái Quốc đều cho rằng chính thể cách mạng của giai đoạn đầu là Chính phủ công nông binh. Đó là chủ trương không phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Có ý kiến cho rằng mô hình nhà nước công nông binh, chính quyền Xô viết ở Nghệ Tĩnh, các công hội đỏ, nông hội đỏ, tự vệ đỏ và khẩu hiệu “trí phú địa hào, đào tận gốc trốc tận rễ” là sản phẩm của Luận cương chánh trị. Ý kiến ấy là không đúng, không khách quan. Vì Luận cương chánh trị đến tháng cuối tháng 10-1930 mới được thông qua, trong khi đó, cao trào cách mạng 1930-1931 và Xô viết Nghệ Tĩnh đến tháng 10-1930 đã tới đỉnh cao và chuyển sang sang thoái trào. Chủ trương thành lập chính phủ công nông binh nếu là giáo điều, “tả” khuynh thì đó điều đã ghi ở Chánh cương vắn tắt và trong Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng của Nguyễn Ái Quốc.
1.2. Về nhiệm vụ chiến lược
Cả hai cương lĩnh đều xác định nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn đầu, giai đoạn cách mạng tư sản dân quyền là đánh đổ đế quốc và phong kiến, làm cho nước Việt Nam được độc lập, nhân dân được tự do, đưa ruộng đất cho dân cày nghèo…
Chánh cương vắn tắt ghi: “A. Về phương diện xã hội: a) Dân chúng được tự do tổ chức; b) Nam nữ bình quyền; c) Phổ thông giáo dục theo công nông hóa. B. Về phương diện chính trị: a) Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến; b) Làm cho nước Nam hoàn toàn độc lập; c) Dựng ra Chính phủ công nông binh; d) Tổ chức ra quân đội công nông. C Về phương diện kinh tế: a) thủ tiêu hết các thứ quốc trái; b) Thâu hết sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng,v.n) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính phủ công nông binh quản lý; c) Thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo…”[4]. Luận cương chánh trị ghi: “Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền là: a) Đánh đổ đề quốc chủ nghĩa Pháp, phong kiến và địa chủ; b) Lập chánh phủ công nông; g) Xứ Đông Dương hoàn toàn độc lập; h) Lập quân đội công nông”[5].
Nghĩa là cả hai cương lĩnh đều xác định cách mạng Việt Nam trong giai đoạn đầu là tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng. Tư sản dân quyền cách mạng là cách mạng về phương diện chính trị, thổ địa cách mạng là cách mạng về phương diện kinh tế. Hai nhiệm vụ chiến lược ấy quan hệ mật thiết với nhau hợp thành cách mạng tư sản kiểu mới. Không có cương lĩnh nào nói chống đế quốc là hàng đầu hay chống phong kiến là hàng đầu như một số công trình khẳng định. Cũng không có cương lĩnh nào nói vấn đề ruộng đất là là thứ hai, là để phục vụ nhiệm vụ dân tộc. Tuy nhiên, theo cách nói đánh đổ “Đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn vua quan, phong kiến địa chủ” thì cần hiểu là cả hai cương lĩnh đều coi mục tiêu, nhiệm vụ chống đế quốc là hàng đầu.
Luận cương chánh trị ghi: “Sự cốt yếu của tư sản dân quyền cách mạng thì một mặt là phải tranh đấu để đánh đổ các di tích phong kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lối tiền tư bổn và để thực hành thổ địa cách mạng cho triệt để, một mặt nữa là tranh đấu để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Hai mặt tranh đấu có liên lạc mật thiết với nhau, vì có đánh đổ đế quốc chủ nghĩa mới phá được giai cấp địa chủ và làm cách mạng thổ địa được thắng lợi; mà có phá tan chế độ phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa”[6]. Có ý kiến cho rằng quan niệm này là sai vì đặt hai nhiệm vụ ngang nhau, thậm chí còn cho đó là đưa nhiệm vụ chống phong kiến lên trên nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Thức chất, đây là nói về mối quan hệ biện chứng giữa hai nhiệm vụ chiến lược của một cuộc cách mạng có mục tiêu “kép” chứ không hẳn là nguyên tắc coi hai nhiệm vụ phải tiến hành song song trong mọi giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ hay đưa nhiệm vụ dân chủ lên hàng đầu.
Nói cách khác, “Vấn đề thổ địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền” là nói về “phương diện kinh tế” của cách mạng tư sản dân quyền, do đó không phải là đưa nhiệm vụ phản đế lên hàng đầu. Luận cương chánh trị coi vấn đề ruộng đất là “cái cốt” chứ không coi là nhiệm vụ “hàng đầu” của cách mạng tư sản dân quyền nên về điểm này không thể phê phán là sai về chỉ đạo chiến lược hay đường lối chiến lược.
Ngay sau Hội nghị Trung ương tháng 10-1930, trong Thư gửi Đảng Cộng sản Đông Dương, ngày 13-11-1930, Ban Phương Đông thuộc Bộ Viễn Đông của Quốc tế Cộng sản, có ghi: “Cách mạng Đông Dương trong giai đoạn hiện nay là một cuộc cách mạng dân chủ tư sản, chống đế quốc. Những nhiệm vụ trước mắt là: giải phóng khỏi ách thống trị và áp bức của đế quốc và giành độc lập hoàn toàn. Đồng thời tiến hành cuộc cách mạng điền địa triệt để, không thỏa hiệp và xóa bỏ mọi quan hệ và di tích phong kiến và nửa phong kiến. Đông lực của cách mạng Đông Dương là: giai cấp vô sản và giai cấp nông dân… Đồng minh trực tiếp của bọn đế quốc là: địa chủ, phong kiến, kỳ hào và giai cấp tư sản dân tộc”[7]. Nếu nói Luận cương chánh trị là “tả” trong vấn đề xác định lực lượng cách mạng và kẻ thù cách mạng thì Thư này của Ban Phương Đông ra đời muộn hơn cũng mắc hạn chế tương tự.
Điều đáng lưu ý là trong giai đoạn này có một văn kiện đề cập đến cả hai cương lĩnh. Đó là Chỉ thị của Trung ương Thường vụ về vấn đề thành lập Hội “Phản đế đồng minh” ngày 18-11-1930. Chỉ thị có đoạn: “Chánh cương sách lược của cuộc cách mạng tư sản dân quyền ở Đông Dương đã phân tích: Giai cấp công nhân không đồng minh được với giai cấp nông dân là lực lượng tất yếu của cách mạng thì không đánh đổ được đế quốc Pháp và tụi phong kiến phản cách mạng trong nước; trái lại đồng minh với nông dân mà không có khẩu hiệu chia đất cho dân cày, thì dân cày sẽ không hưởng ứng. Như vậy cũng không làm được cuộc cách mạng tư sản dân quyền thành công.
Trên đó là hai động lực chính căn bản cho sự bố trí hàng ngũ cách mạng; còn mặt khác nữa là giai cấp vô sản lãnh đạo cuộc cách mạng tư sản dân quyền ở Đông Dương mà không tổ chức được toàn dân lại thành một lực lượng thật đông, thật kín thì cuộc cách mạng cũng khó thành công (rộng là toàn dân cùng đứng trong một mặt trận chống đế quốc và tụi phong kiến làm tay sai phản động hèn hạ; kín là đặt để công nông trong bức tường thành dân tộc phản đế bao la).
Từ trước các đồng chí chưa rõ vấn đề ấy, mà nay cũng vẫn mập mờ, nên dù tổ chức cách mạng vẫn đơn thuần công nông và là một màu sắc nhất định như: Công hội đỏ, Nông hội đỏ, Thanh niên đỏ, Sinh hội đỏ, và Cứu tế đỏ; do đó thiếu mặt tổ chức thật quảng đại quần chúng, hấp thụ các tầng lớp trí thức dân tộc, tư sản dân tộc…
Đó chính là hiểu chậm chạp và chưa thật triệt để Luận cương cách mạng tư sản dân quyền… Do đó chúng ta đã tách rời dân tộc cách mạng với giai cấp cách mạng làm hai đường mà chưa nhận định đúng là dân tộc cách mạng vẫn là một nhiệm vụ trong giai cấp cách mạng. Sự chuyển biến lối này hay lối khác đó là hoàn cảnh từng nơi từng lúc, chứ không phải hai đường sai trái nhau.
Hơn nữa trong Chính cương sách lược đã đề ra phản đế và điền địa là song song, thì tổ chức Phản đế đồng minh là đúng và cần, nên nhắc lại để các cấp đảng ủy và các đồng chí nhận thức rõ ràng trên hai mặt lý thuyết và thực hành”[8].
Chúng tôi cho rằng nhận xét của chỉ thị này là khách quan, rất đáng lưu ý khi nghiên cứu về quan hệ giữa nhiệm vụ dân tộc và dân chủ trong hai cương lĩnh năm 1930 của Đảng.
1.3. Về lực lượng cách mạng
Cả hai cương lĩnh đều coi liên minh công nông là lực lượng chính và hết sức quan tâm đến lợi ích của công nông, đều có chỗ nhận thức chưa đầy đủ về vai trò và tính tích cực cách mạng của các giai cấp địa chủ, tư sản, tiểu tư sản ở một nước thuộc địa.
Chánh cương vắn tắt ghi: “Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến… Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh Niên, Tân Việt,v.v. để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp”[9]. “Đảng tập hợp đa số quần chúng nông dân, chuẩn bị cách mạng thổ địa và lật đổ bọn địa chủ và phong kiến… Đảng giải phóng công nhân và nông dân thoát khỏi ách tư bản”[10]. Luận cương chánh trị ghi: Vô sản giai cấp là “một động lực chánh và rất mạnh của cách mạng ở Đông Dương”, dân cày là “một động lực mạnh cho cách mạng tư sản dân quyền”. “Đồng minh của giai cấp vô sản là bọn trung và bần nông”[11].
Những quan điểm đó cơ bản là đúng đắn, vì cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân mà công nông là lực lượng đông đảo nhất, cách mạng nhất, không có liên minh công nông sẽ không có cách mạng Việt Nam. Mặt khác, đã là Đảng Cộng sản thì đương nhiên phải quan tâm đến lợi ích của quần chúng lao động, đông đảo nhất, căn bản nhất là công nông. Không quan tâm đến lợi ích của nhân dân, trong đó cơ bản, đông đảo nhất là công nông thì đó không phải là Đảng Cộng sản. Điều này thuộc về nguyên tắc bản chất giai cấp của Đảng Cộng sản và quan niệm đó không trái với quan điểm coi trọng lợi ích toàn dân tộc. Đây là điểm riêng có của Đảng Cộng sản, một đảng chính trị, có tính giai cấp rõ ràng mà càng quan tâm đến lợi ích giai cấp mình thì càng quan tâm đến lợi ích của mọi giai tầng xã hội khác, muốn giải phóng giai cấp mình thì phải ra sức giải phóng tất cả các giai tầng xã hội, phải giải phóng dân tộc. Hiện nay, Đảng ta vẫn kiên định quan điểm này nên luôn chủ trương độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, việc tập hợp lực lượng cách mạng quá coi trọng liên minh công nông, nhấn mạnh vai trò và quyền lợi của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân vào thời điểm đất nước còn bị đế quốc đô hộ là chưa phù hợp, thể hiện tư tưởng giáo điều, “tả” khuynh, nóng vội. Cả hai cương lĩnh đều mắc hạn chế này.
Chánh cương vắn tắt cho rằng “Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn bọn đại địa chủ và phong kiến”. “Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thỉ phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng (Đảng Lập hiến, v.v...) thì phải đánh đổ”. “Trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của công nông mà đi vào đường thỏa hiệp...”[12]. “Không bao giờ Đảng lại hy sinh quyền lợi của giai cấp công nhân và nông dân cho một giai cấp nào khác”[13]. Đoạn trích đó thể hiện Chánh cương vắn tắt có quan điểm giai cấp rất “rạch ròi”, có sự phân biệt và “dè dặt” trong tập hợp lực lượng cách mạng.
Luận cương chánh trị ghi: “bọn tư bổn thương mại… đứng về một phe với đế quốc chủ nghĩa và địa chủ mà chống cách mạng. Bọn tư bổn công nghệ…vì sức lực yếu kém, có dính dáng với địa chủ, sợ phong trào vô sản “cho nên chúng nó không thể đứng về quốc gia cách mạng mà chỉ đứng về mặt quốc gia cải lương”. “Bọn thủ công nghiệp thì thái độ của chúng nó đối với cách mạng rất do dự”. Bọn tiểu thương thì không tán thành cách mạng, bọn trí thức, tiểu tư sản, học sanh,v.v “hăng hái cách mạng nhưng chỉ lúc đầu”[14].
Những điều đó chứng tỏ Luận cương chánh trị chưa thực sự coi trọng vai trò và khả năng cách mạng của tầng lớp trí thức, tiểu tư sản và tư sản dân tộc, trung và tiểu địa chủ ở một nước thuộc địa. Chưa thực sự coi trong, song không hẳn là “tả” khuynh. Vì nếu “tả” khuynh như một số người hiểu thì làm sao Trung ương Đảng lại có sự phê phán Xứ ủy Trung kỳ là: “Xứ ủy Trung Kỳ, nhất là đồng chí Bí thư, ra chỉ thị thanh Đảng viết rõ từng chữ: thanh trừ trí phú địa hào, đào tận gốc trốc tận rẽ, như vậy thì gốc đâu mà đào, xem rễ ở đâu mà trốc, quả là một ý nghĩ mơ hồ, một chỉ thị võ đoán và là một lối hành động quàng xiên chi tướng”[15].
1.4. Về giai cấp lãnh đạo cách mạng
Hai cương lĩnh đều khẳng định lãnh đạo cách mạng Việt Nam là giai cấp vô sản, thông qua chính đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam (Chánh cương vắn tắt), hoặc Đảng Cộng sản Đông Dương (Luận cương chánh trị).
Chánh cương vắn tắt ghi: “Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng” (trong Sách lược văn tắt)[16]. “Đảng là đội tiên phong của đạo quân vô sản gồm một số lớn của giai cấp công nhân và làm cho họ đủ năng lực lãnh đạo quần chúng”. “Đảng tập hợp đa số quần chúng nông dân, chuẩn bị cách mạng thổ địa và lật đổ bọn địa chủ và phong kiến”. “Đảng giải phóng công nhân và nông dân thoát khỏi ách tư bản”[17]. Hoặc “Tôn chỉ: Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức ra để lãnh đạo quần chúng lao khổ làm giai cấp tranh đấu để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng sản”(trong Điều lệ vắn tắt)[18].
Luận cương chánh trị ghi: “Trong cuộc cách mạng tư sản dân quyền, vô sản giai cấp và nông dân là hai động lực chánh, nhưng vô sản có cầm quyền lãnh đạo thì cách mạng mới thắng lợi được”[19]. “Điều kiện cốt yếu cho sự thắng lợi của cuộc cách mạng ở Đông Dương là cần phải có một Đảng Cộng sản có một đường lối chánh trị đúng, có kỷ luật, tập trung, mật thiết liên lạc với quần chúng, và từng trải đấu tranh mà trưởng thành. Đảng là đội tiền phong của vô sản giai cấp lấy chủ nghĩa Các Mác và Lênin làm gốc mà đại biểu quyền lợi chánh và lâu dài, chung cho cả giai cấp vô sản ở Đông Dương và lãnh đạo vô sản giai cấp Đông Dương ra tranh đấu để đạt được mục đích cuối cùng của vô sản là chủ nghĩa cộng sản”[20]. “Trong công tác, Đảng phải liên lạc mật thiết với Đảng Cộng sản Pháp, Tàu và Ấn Độ”[21]. Chúng tôi cho rằng ở vấn đề này- vấn đề Đảng và xây dựng Đảng, Luận cương chánh trị rõ ràng và đầy đủ hơn so với Chánh cương vắn tắt.
1.5. Về phương pháp cách mạng
Cả hai cương lĩnh đều nói là phải sử dụng bạo lực cách mạng, tức là phải sử dụng sức mạnh của nhân dân. Chánh cương vắn tắt có sử dụng từ “đánh đổ” chính quyền đế quốc, phong kiến và “dựng ra” chính phủ công nông binh. Nghĩa là theo quan điểm cách mạng bạo lực, không phải bằng phương pháp cải lương, song không rõ là “đánh đổ” như thế nào. Luận cương chánh trị ghi rõ là phải có cách tranh đấu từ thấp đến cao, từ “phần ít” đến khi có thời cơ thì thực hiện khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Lúc đó “Đảng phải lập tức lãnh đạo quần chúng để đánh đổ chánh quyền của địch nhân và giành lấy chánh quyền cho công nông”. “Võ trang bạo động không phải là một việc thường, chẳng những là theo hình thế trực tiếp cách mạng, mà lại phải theo khuôn phép nhà binh”[22].
Rõ ràng Luận cương chánh trị đã nhận thức được bạo lực cách mạng là sức mạnh nhân dân. Xác định sử dụng bạo lực cách mạng là sử dụng sức mạnh của toàn dân, nhất là công nông, là phương pháp cách mạng đúng đắn. Việc phải “cẩn thận” khi liên lạc với các giai tầng khác ngoài công nông, trong khi liên lạc với các giai tầng khác “không được đi vào con đường thỏa hiện mà hy sinh quyền lợi của công nông”, hay coi tư bản và địa chủ nói chung đều là đứng về phe đế quốc, không thể hợp tác được là sai lệch của cả hai cương lĩnh. Vì Chánh cương vắn tắt chỉ có một cụm từ diễn đạt là “đánh đổ”, còn ở Luận cương chánh trị thì đầy đủ hơn, khẳng định phải sử dụng bạo lực cách mạng, phải tiến tới khởi nghĩa vũ trang, nêu lên cả vấn đề tập dượt quần chúng, vấn đề nắm bắt thời cơ khỏi nghĩa, tuân thủ các nguyên tắc “nhà binh” khi khởi nghĩa, nên trong vấn đề phương pháp cách mạng, Luận cương chánh trị rõ ràng, cụ thể hơn Chánh cương vắn tắt.
1.6. Về quan hệ quốc tế
Cả hai cương lĩnh đều nói cách mạng Việt Nam, cách mạng Đông Dương là một bộ phận của cách mạng thế giới (cách mạng vô sản), nên phải liên lạc với phong trào vô sản và giải phóng dân tộc các nước.
Chánh cương vắn tắt ghi: “…trong khi tuyên truyền cái khảu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai cấp thế giới, nhất là vô sản Pháp”(trong Sách lược vắn tắt). “Đảng phổ biến khẩu hiệu “Việt Nam tự do” và đồng thời Đảng liên kết với những dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản trên thế giới nhất là với quần chúng vô sản Pháp”(trong Chương trình tóm tắt). Luận cương chánh trị ghi: “Vô sản Đông Dương phải liên lạc mật thiết với vô sản thế giới, nhứt là vô sản Pháp để làm cho mặt trận vô sản “mẫu quốc” và thuộc địa cho sức đấu tranh cách mạng được mạnh lên... Trong công tác, Đảng phải liên lạc mật thiết với Đảng Cộng sản Pháp, Tàu và Ấn Độ”[23].
Quan điểm quốc tế coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới là mởi mẻ, đúng đắn. Với quan điểm, chủ trương đó, cách mạng Việt Nam bắt đầu hội nhập với cách mạng thế giới, nên vừa có điều kiện tranh thủ sự giúp đỡ của cách mạng thế giới vừa có thể đóng góp vào sự nghiệp chung của nhân dân thế giới. Luận cương chánh trị đã đầy đủ, rộng rãi hơn Chánh cương vắn tắt về mặt đoàn kết quốc tế và bạn đồng minh khi nhấn mạnh tới quan hệ không chỉ với vô sản Pháp mà còn cả với quần chúng cách mạng ở các thuộc địa và bán thuộc địa, nhất là Tàu và Ấn Độ.
Ở đây cần lưu ý là khi coi cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới (cách mạng vô sản) thì tính dân tộc của cách mạng Việt Nam, tư tưởng dân tộc/yêu nước của Hồ Chí Minh và các đồng chí của Người không phải là dân tộc/yêu nước hiểu theo phạm trù cũ mà là dân tộc/yêu nước theo lập trường vô sản, là giải phóng dân tộc trong khuôn khổ cách mạng vô sản, một bộ phận của cách mạng vô sản, thuộc cách mạng vô sản. Đã là cách mạng vô sản thì đánh đổ đế quốc, phong kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng không phải là mục đích cuối cùng, mà chỉ là một bước đi cần thiết trên lộ trình phải trải qua để đi tới chủ nghĩa xã hội, chủ nghiã cộng sản. Vì cách mạng vô sản có mục đích cuối cùng là giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người nên tính dân tộc/yêu nước của Hồ Chí Minh và những người cộng sản là khác về chất so với tính dân tộc/yêu nước của các bậc tiền bối theo lập trường phong kiến hay tư sản... Trong Di chúc, Hồ Chí Minh vẫn khẳng định Người đi theo “Cụ Các Mác, Cụ Lênin”.
*****
Như vậy, Chánh cương vắn tắt và Luận cương chánh trị của Đảng năm 1930 là thống nhất với nhau về tất cả các nội dung cơ bản; sự sai khác nhau chỉ ở đôi chỗ thuộc về diễn đạt và chủ yếu trong vấn đề sắp xếp lực lượng cách mạng. Lâu nay, có nhiều người đã cho rằng Luận cương chánh trị (tháng 10-1930) đã phê phán Chánh cương văn tắt (tháng 2-1930), có nhiều điểm sai khác, mâu thuẫn và thụt lùi so với Chánh cương là không xác đáng. Họ đã nhầm lẫn sự khác nhau giữa Chánh cương văn tắt với Án Nghị quyết của Trung ương đại hội toàn thế tháng 10 năm 1930 (Án Nghị quyết), Thư của Trung ương gửi các cấp Đảng bộ ngày 9-12-1930 vàThư của Ban Phương Đông gửi Đảng Cộng sản Đông Dương, ngày 13-11-1930. Thực ra trong các văn kiện đó chỉ có Án Nghị quyết và Thư của Trung ương là có sự phê phán và khác nhau với Chánh cương và Thư của Ban Phương Đông là phê phán Luận cương mà thôi.
Án nghị quyết có đoạn phê phán Hội nghị hợp nhất là: “Sai lầm về việc tổ chức đảng. Lúc đầu tổ chức đảng, kế hoạch không xác đáng H.N.H.N (hội nghị hợp nhất) lại không lấy một nền chánh trị C.S, và những kế hoạch làm việc C.S làm căn bổn mà chọn lấy những phần tử chơn chánh C.S của các đoàn thể tự xưng là C.S (“Thanh Niên”, “Đ.D.C.S”, “C.S Liên đoàn”, “An Nam C.S Đảng”, v.v… H.N.H.N chỉ lo việc hiệp các đoàn thể ấy lại làm một mà ít chú ý đến việc bài trừ những tư tưởng và hành động biệt phái của các đảng phái trước kia. Bởi vậy cho nên đảng tuy đã hiệp nhứt, nhưng tư tưởng, hành động của đảng phái nào cứ giữ như cũ”[24]. Hoặc “Sai lầm về Điều lệ và tên Đảng. Trong hệ thống tổ chức của Đảng thì bỏ mất xứ bộ. Sai là vì bắt T.Ư (bảy người) trực tiếp chỉ huy các tỉnh bộ, làm cho T.Ư đã không châu đáo được đến mỗi việc ở các tỉnh; mà lại không còn thì giờ mà lo đến việc quan trọng chung cho toàn thể Đảng nữa”[25].
Thư của Trung ương gửi cho các cấp Đảng bộ ngày 9-12-1930 có đoạn: “Đảng hiệp nhất kể đã có sanh hoạt gần một năm rồi nhưng vẫn chưa có thể thống gì, đó là vì: 1) Hội nghị hiệp nhất (H.n.h.n) chủ trương công việc rất sơ sài, mà có nhiều điều không đúng với chủ trương của quốc tế. 2) Lâm thời Trung ương cử ra sau lúc H.n.h.n đã không nhóm một lần hội nào mà bàn định kế hoạch làm việc trong toàn thể Đảng”[26]. “Tại sao chủ trương của H.n.h.n lại có nhiều chỗ không đúng với chủ trương của Q.t? Đồng chí đứng ra chiêu tập H.n.h.n năm trước kia thì được Q.t cho về tùy hoàn cảnh mà làm việc chứ chưa có được kế hoạch rõ ràng gì. Khi đồng chí ấy về đến nơi thì thấy phong trào c.s tuy mới nổi nhưng đã chia rẽ rồi nên tự ý hành động có nhiều việc sai lầm không đúng với kế hoạch của Q.t. Vì đó mà có Hội nghị hiệp nhất. Đồng chí ấy nay đã nhận rõ những điều sai lầm và cũng đã đồng ý với T.ư mà sửa đổi những chỗ sai lầm lúc trước”[27]. Trung ương chủ trương: “Trong nội bộ: a) Thủ tiêu chánh cương sách lược và Điều lệ cũ của Đảng, lấy kinh nghiệm trong thời kỳ vừa qua mà thực hành công việc cho đúng như Án nghị quyết và Thơ chỉ thị của Q.T.C.S”[28],...
Thư của Ban Phương Đông gửi Đảng Cộng sản Đông Dương, ngày 13 - 11 - 1930 có đoạn: “Trước hết, chúng tôi gợi ý rằng văn kiện dự thảo của hội nghị gần đây của Ban Chấp hành Trung ương không nên gọi là “Cương lĩnh của Đảng” mà lúc này sẽ chỉ đơn giản được công bố là dự thảo nghị quyết của hội nghị này cho các đảng viên thảo luận nhằm chuẩn bị cho hội nghị Đảng sắp tới. Chúng tôi cho rằng thời gian còn chưa chín muồi để Đảng Đông Dương thông qua một cương lĩnh toàn quốc của Đảng. Một cương lĩnh như vậy là một vấn đề rất nghiêm túc và chỉ có thể được xây dựng sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng tình hình Đông Dương và nhiều vấn đề nghiêm trọng của phong trào cách mạng ở xứ này”. “Văn kiện dự thảo của các đồng chí mà các đồng chí gọi là “Cương lĩnh của Đảng” còn rất sơ sài và phải được viết lại rất cẩn thận”[29]...
Những đoạn phê phán đó không hề có trong Luận cương tháng 10 - 1930.
Vả lại sự phê phán của các văn kiện trên là xuất phát từ ý thức, trách nhiệm chung, theo nhận thức của Trung ương và Ban Phương Đông lúc bấy giờ, là sự phê phán Bônsêvíc chứ không phải là mâu thuẫn, đối lập về tư tưởng. Bản thân Nguyễn Ái Quốc là người tham dự, cùng chủ trì hội nghị Trung ương tháng 10 - 1930 và cũng đã tán thành với sự phê phán đó[30].
Sự thật lịch sử là như vậy. Bản lĩnh, trí tuệ và tinh thần cách mạng của Lãnh tụ Hồ Chí Minh, của Tổng Bí thư Trần Phú, của các bậc tiền bối thời dựng Đảng là như vậy. Đảng ta, nhân dân ta, dân tộc ta mãi mãi tự hào về Chánh cương vắn tắt và Luận cương chánh trị, về Chủ tich Hồ Chí Minh người sáng lập Đảng và về đồng chí Trần Phú, Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng. Với cốt lõi nhất quán là tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, Chánh cương vắn tắt và Luận cương chánh trị của Đảng năm 1930 có ý nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức to lớn.
Hồ Chí Minh khẳng định: “Trong bản Cương lĩnh cách mạng tư sản dân quyền năm 1930, Đảng đã nêu rõ nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến, thực hiện dân tộc độc lập, người cày có ruộng. Cương lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện vọng thiết tha của đại đa số nhân dân ta là nông dân. Vì vậy, Đảng đã đoàn kết được những lực lượng cách mạng to lớn chung quanh giai cấp mình. Còn các đảng phái của các giai cấp khác thì hoặc bị phá sản hoặc bị cô lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta - đảng của giai cấp công nhân - không ngừng củng cố và tăng cường”[31].
Tài liệu tham khảo
Ý kiến bạn đọc
Thứ hai - 25/11/2024 09:11
Chủ nhật - 24/11/2024 14:11
Chủ nhật - 24/11/2024 14:11
Thứ sáu - 22/11/2024 18:11
Thứ năm - 21/11/2024 10:11