Lịch sử là cái đã qua, có thể ngắn như chớp mắt, cũng có thể là dòng thời gian cả muôn vạn đến hàng triệu năm. Cái đã qua ấy, dù dài ngắn không đều, luôn có ít nhiều “vật đổi sao dời”, “thay triều đổi đại”, “thời đại hoàng kim”, “thời kỳ đen tối”, “minh quân lương tướng”, “hôn quân ngu thần”... ở mỗi vùng đất, đối với mỗi cộng đồng xã hội khác nhau. Lịch sử, như Thi hào Victor Hugo nghĩ “là tiếng vọng của quá khứ trong tương lai và là ánh phản chiếu của tương lai trên quá khứ”. Hay như các sử gia Hy Lạp cổ đại tin rằng lịch sử “là cô giáo của cuộc sống”, “là bó đuốc soi đường đi tới tương lai”. Cũng như người phương Đông cho rằng lịch sử là “ôn cố nhi tri tân”... Lịch sử, ở góc độ bài học, đã cung cấp cho hiện tại ba tấm gương có thể soi rọi vào quá khứ để khai mở hướng đi cho tương lai. Ba tấm gương ấy là: “Lấy Người làm gương có thể biết được Tốt Xấu”, “Lấy Việc làm gương có thể biết được Thành Bại”, và “Lấy Sử làm gương có thể biết được Cũ Mới”.
Vậy nên, sử học là ngành khoa học về lịch sử. Ngành học ấy có thể thu muôn vạn năm vào trong sử sách để khai mở tương lai từ hiện tại. Sử học do đó, là một trong những khoa học đầu tiên của các xã hội khi bước vào văn minh. Và đâu đó, ở phương Tây cũng như phương Đông, sử học đều xuất hiện khoảng trên hai ngàn năm trước. Việt Nam là một nước có nền văn hiến lâu đời, sử học khai sinh từ gần ngàn năm trước trong nền văn minh Đại Việt rực rỡ. Trong lịch sử tồn tại của ngành, các cơ quan viết sử quốc gia, các sử gia và các tác phẩm sử học không chỉ thể hiện vai trò ghi chép lại những cái đã qua, mà bên cạnh đó còn luôn đưa ra những cảnh báo cho tương lai. Sử học Việt Nam hiện đại hình thành từ những năm đầu sau Cách mạng Tháng Tám 1945. Sau năm 1975, cả nước có nhiều cơ sở đào tạo và cơ sở nghiên cứu, biên soạn lịch sử của quốc gia. Trong đó, Khoa Lịch sử là cơ sở đào tạo và nghiên cứu sử học hình thành sớm nhất, có uy tín cao trong nước và quốc tế.
Khoa Lịch sử là một trong bốn khoa được thành lập đầu tiên của Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, nay thuộc Trường Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội. Ngày 10/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành Sắc lệnh số 45 thiết lập Ban Đại học Văn khoa tại Hà Nội, và Lịch sử là một trong hai bộ phận của Ban. Ngày 4/6/1956, Thủ tướng Phạm Văn Đồng ban hành Quyết định số 2138/TC thành lập Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội gồm Ban Khoa học và Ban Văn khoa, trong đó Ban Văn khoa có hai bộ phận độc lập là Văn và Sử. Ngay trong năm 1956, Ban Văn khoa được chia thành hai đơn vị là Khoa Văn và Khoa Sử. Từ đó đến nay, khoa Lịch sử luôn là một trung tâm hàng đầu Việt Nam trong hình thành, đào tạo, nghiên cứu và ứng dụng các khoa học lịch sử và văn hóa.
Trải gần 70 năm phát triển với khoảng 220 lượt cán bộ công tác, khoa Lịch sử có một số giới thiệu dưới đây:
1. Tạo dựng học phong Trường phái sử học Tổng hợp có uy tín cao và ảnh hưởng lớn trong nước và quốc tế, từ thế hệ khai nền đắp móng với “Tam Anh” các bác học lớn Đào Duy Anh, Trần Văn Giàu, Trần Đức Thảo; được kế thừa, vun bồi và nâng cao bởi thế hệ vàng “Tứ Trụ” Đinh Xuân Lâm, Phan Huy Lê, Hà Văn Tấn, Trần Quốc Vượng; cùng lớp lớp nhà sử học, nhà giáo qua nhiều thế hệ, cho đến hôm nay.
4. Góp phần làm lên lịch sử của thời đại Hồ Chí Minh. Trong kháng chiến chống Mỹ, nhiều cán bộ sinh viên tham gia các mặt trận, chiến trường, nhiều chiến sĩ/sinh viên Khoa Lịch sử hy sinh: Ngô Văn Sở K12 (Quảng Trị), Nguyễn Văn Kim K12 (Nam Bộ), Nguyễn Văn Tâm K14 (Quảng Trị), Lê Văn Doan K15 (1972, Quảng Trị), Nguyễn Văn Toản K15 (1972, Quảng Trị), Trần Anh Tuấn K15 (1972, Nam Bộ), Nguyễn Văn Tài K15 (Quảng Trị)... Đặc biệt, Thầy giáo, nhà thơ, liệt sỹ Ca Lê Hiến - Lê Anh Xuân (1968, Sài Gòn), người nghệ sĩ đã tạc nên tượng đài sừng sững Dáng đứng Việt Nam thế kỷ XX.
5. Công bố khoảng 6.000 công trình khoa học với khoảng 10% là giáo trình và sách chuyên khảo, tham khảo; gần 5% là công bố quốc tế; 15 công trình của 6 cá nhân nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh; 5 công trình nhận Giải thưởng Nhà nước về Khoa học và Công nghệ.
Đào Duy Anh:
Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến cuối thế kỷ XIX, Lịch sử cổ đại Việt Nam, Việt Nam văn hóa sử cương, Đất nước Việt Nam qua các đời (GT Hồ Chí Minh năm 2000).
Trần Văn Giàu:
Chống xâm lăng, Lịch sử cận đại Việt Nam, Giai cấp công nhân Việt Nam từ Đảng Cộng sản thành lập đến cách mạng thàng công, Miền Nam giữ vững thành đồng, Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng Tháng Tám (GT Hồ Chí Minh năm 1996).
Trần Đức Thảo:
Tìm cội nguồn của ngôn ngữ và ý thức (GT Hồ Chí Minh năm 2000).
Phan Huy Lê:
Lịch sử văn hóa Việt Nam: Tiếp cận bộ phận (GT Hồ Chí Minh năm 2017);
Tìm về cội nguồn (GT Nhà nước năm 2000).
Hà Văn Tấn:
Theo dấu các văn hóa cổ (GT Hồ Chí Minh năm 2000).
Trần Quốc Vượng:
Việt Nam cái nhìn địa văn hóa, Trên mảnh đất ngàn năm văn vật, Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm (GT Hồ Chí Minh năm 2012).
Phan Đại Doãn:
Làng xã Việt Nam: Một số vấn đề kinh tế - văn hóa - xã hội (GT Nhà nước năm 2005).
Phan Hữu Dật:
Một số vấn đề về dân tộc học Việt Nam (GT Nhà nước năm 2005).
Nguyễn Thừa Hỷ:
Thăng Long - Hà Nội thế kỷ XVII - XVIII - XIX (GT Nhà nước năm 2010).
Đinh Xuân Lâm:
Phong trào chống chủ nghĩa thực dân ở Việt Nam (GT Nhà nước năm 2022).
Nhiều bộ giáo trình được sử dụng trong hệ thống trường đại học giảng dạy về lịch sử và văn hóa trong cả nước:
Lịch sử chế độ cộng sản nguyên thuỷ ở Việt Nam, Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, Đại cương Lịch sử Việt Nam, Tiến trình lịch sử Việt Nam, Lịch sử Việt Nam, Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Lịch sử thế giới, Lịch sử văn minh thế giới, Phương pháp luận sử học, Đại cương sử liệu học và các nguồn sử liệu chữ viết lịch sử Việt Nam, Cơ sở Khảo cổ học, Thời đại đồ đồng, Dân tộc học đại cương, Cơ sở văn hóa Việt Nam....
Những bộ sách dịch tư liệu lịch sử trở thành nguồn sử liệu quan trọng cho giới nghiên cứu lịch sử Việt Nam:
Dư địa chí (Hà Văn Tấn);
Quân trung từ mệnh tập (Phan Huy Lê);
Việt sử lược (Trần Quốc Vượng);
Việt Nam vong quốc sử (Chương Thâu, Chu Thiên)...
Những sách chuyên khảo trở thành kinh điển của nghiên cứu về lịch sử và văn hóa Việt Nam:
Cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông thế kỷ XIII (Hà Văn Tấn, Phạm Thị Tâm),
Khởi nghĩa Lam Sơn và Chế độ ruộng đất, kinh tế nông nghiệp thời Lê sơ (Phan Huy Lê),
Lịch sử Chính phủ Việt Nam và Lịch sử Quốc hội Việt Nam (Lê Mậu Hãn),
Phong trào cách mạng ở một số nước Đông Á từ giữa thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX (Vũ Dương Ninh),
Văn hóa Phùng Nguyên (Hán Văn Khẩn),
Tiền cổ học và tiền cổ Việt Nam (Hoàng Văn Khoán),
Chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh (Phùng Hữu Phú),
Quân thủy trong lịch sử chống ngoại xâm (Vũ Minh Giang),
Chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa, Trường Sa: Tư liệu và sự thật lịch sử (Nguyễn Quang Ngọc),
Nhà nước, Tôn giáo và Luật pháp (Đỗ Quang Hưng),
Một làng Việt cổ truyền ở Đồng bằng Bắc Bộ (Nguyễn Hải Kế),
Việt Nam Quốc dân đảng trong lịch sử cách mạng Việt Nam (Nguyễn Văn Khánh),
Chính sách đóng cửa của Nhật Bản thời kỳ Tokugawa: Nguyên nhân và hệ quả (Nguyễn Văn Kim),
Nội các Trần Trọng Kim: Bản chất, vai trò và vị trí lịch sử (Phạm Hồng Tung),
Sa Huỳnh - Lâm Ấp - Chămpa: Thế kỷ 5 trước Công nguyên đến thế kỷ 5 sau Công nguyên (Một số vấn đề khảo cổ học) (Lâm Thị Mỹ Dung),
Vương triều Trần 1226-1400 (Vũ Văn Quân),
Khu phố cổ Hà Nội nửa đầu thế kỷ XX qua tư liệu địa chính (Phan Phương Thảo)...
6. Chủ trì nhiều đề án lớn về nghiên cứu lịch sử Việt Nam: Lịch sử Quốc hội Việt Nam (1991-1994), Lịch sử Chính phủ Việt Nam (2001-2005), Vùng đất Nam Bộ (2008-2010), Lịch sử Việt Nam (Quốc sử 2016-2018)... và các đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước: G
iá trị truyền thống và con người Việt Nam hiện nay, Thiết chế chính trị xã hội nông thôn Việt Nam, Tư tưởng đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Lịch sử và hiện trạng hệ thống chính trị ở Việt Nam, Luận cứ khoa học và những giải pháp thực tiễn tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân ở nước ta hiện nay, Lãnh thổ phía Nam và biên giới Tây Nam trong lịch sử, Lịch sử chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa... Xin nhấn mạnh rằng, dây đều là các nhiệm vụ đặt hàng của Nhà nước đối với khoa Sử như là một trung tâm hàng đầu chất lượng cao, giải quyết các vấn đề căn cốt của đất nước thuộc các lĩnh vực liên quan về lịch sử và văn hóa.
Hai đề xuất chính sách với chính phủ đã được triển khai: Nghiên cứu văn hóa Óc Eo, Nghiên cứu Biển Đông.
7. Hợp tác quốc tế sớm và sâu rộng: Từ cuối những năm 1950 đã có các GS Khảo cổ học Liên Xô và Trung Quốc tới tham gia giảng dạy và hợp tác nghiên cứu tại khoa Lịch sử. Trong suốt những năm 1960-1980, quan hệ hợp tác trong khối xã hội chủ nghĩa diễn ra liên tục. Cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990, Khoa đã mở rộng hợp tác với các nước phương Tây. Cho đến năm 1990, đề tài VH26 (Việt Nam - Hà Lan) là đề tài khoa học xã hội duy nhất của Bộ Giáo dục và Đào tạo hợp tác với Hà Lan. Thông qua sự giúp đỡ của Đại học Quốc gia Australia và đề tài VH26, từ năm 1994 Khoa Lịch sử đã xây dựng được văn phòng thông tin nối mạng internet. Đây cũng chính là một trong những máy tính đầu tiên kết nối internet và địa chỉ Email đầu tiên ở Việt Nam
[1].
Từ 1995 đến nay, Khoa Lịch sử luôn tích cực mở rộng quan hệ hợp tác đào tạo, nghiên cứu với các trung tâm đào tạo và nghiên cứu các khoa học lịch sử ở trong nước và quốc tế. Khoa Lịch sử đang duy trì quan hệ mật thiết với khoảng 50 trung tâm đào tạo và nghiên cứu quốc tế: các trường đại học California Fullerton, California Berkeley, Montana, Princeto, Texas, Hawaii, Ohio (Hoa Kỳ); đại học Toronto (Canada); đại học Quốc gia Australia, Monash (Australia); đại học Leiden, Amsterdam (Hà Lan); đại học Humboldt, Passau, Frankfurt, Konstanz, Giessen, Greifswald, Viện Khảo cổ học Cộng hòa Liên bang Đức (Đức); đại học Paris I, Paris VII, Viện Lịch sử Quân sự thuộc Bộ Quốc phòng Pháp (Pháp); đại học Quốc gia Auckland (New Zealand); đại học Quốc gia Singapore, Viện nghiên cứu Đông Nam Á (Singapore); đại học Quốc gia Tokyo, Osaka, Hiroshima, Kansai, Chiêu Hòa, Kanazawa… (Nhật Bản); đại học Quốc gia Seoul, Inha (Hàn Quốc); đại học Bắc Kinh, Trung Sơn, Cát Lâm, Hạ Môn, Vũ Hán, Hồ Nam, Phúc Đán, Nam Kinh (Trung Quốc); đại học Thành Công, Hoa Liên (Đài Loan)…
Việc hợp tác địa phương được đẩy mạnh trong 20 năm trở lại đây, nhằm thực hiện mục tiêu ứng dụng nghiên cứu khoa học cơ bản vào phục vụ cộng đồng, nhất là trong lĩnh vực tư vấn, hợp tác nghiên cứu, đề xuất giải pháp quản lý, bảo tồn, phục hồi và phát huy giá trị di sản văn hóa vật thể, phi vật thể ở nhiều địa phương trong cả nước, góp phần tư vấn chính sách phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội trong quá trình biên soạn văn kiện đại hội Đảng bộ địa phương.
7. Phong thưởng:
- Tập thể Anh hùng lao động thời kỳ đổi mới (Tập thể khoa Lịch sử, 2000) và cá nhân Anh hùng Lao động (GS Trần Văn Giàu, 2003); Huân lao động các hạng Nhất, Nhì, Ba cho tập thể khoa Lịch sử và nhiều cá nhân trong Khoa;
- 6 Giải thưởng Hồ Chí Minh (GS Trần Văn Giàu 1996, GS Trần Đức Thảo 2000, GS Đào Duy Anh 2000, GS Hà Văn Tấn 2000, GS Trần Quốc Vượng 2012, GS Phan Huy Lê 2017);
- 5 Giải thưởng Nhà nước (GS Phan Huy Lê 2000, GS Phan Đại Doãn 2005, GS Phan Hữu Dật 2005, PGS Nguyễn Thừa Hỷ 2010, GS Đinh Xuân Lâm 2022);
- 1 Giải thưởng Bùi Xuân Phái (PGS Nguyễn Thừa Hỷ 2019).
- Giải thưởng quốc tế:
+ GS Phan Huy Lê: Giải thưởng Quốc tế Văn hoá châu Á Fukuoka Nhật Bản (1996), Huân chương Cành Cọ Hàn Lâm của Chính phủ Pháp (2002), Viện sĩ Thông tấn Viện Hàn Lâm, Văn khắc và Mỹ văn Cộng hoà Pháp (2011); Docteur Honoris Causa của Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp (Pháp, 2016);
+ GS Trần Quốc Vượng: Rockfeller Fellow (Mỹ, 1990); The man of the year 2000 (ABC, Mỹ); 1/2000 scholars of the XXth century (IBC, Cambridge, Anh, 2000); Giáo sư đại trưởng lão (Tokyo, Nhật, 2000); Asian Pacific Who is Who (Ấn Độ, 2004).
8. Hoạt động xã hội:
Giải thưởng khoa học Trần Văn Giàu được thành lập từ năm 2002, hàng năm trao giải thưởng cho công trình nghiên cứu thuộc về hai lĩnh vực: lịch sử và lịch sử tư tưởng vùng đất Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Tổng giá trị trao hàng năm (nếu có) khoảng 400 triệu đồng.
Quỹ Sử học Đinh Xuân Lâm được thành lập năm 2017, hàng năm trao giải thưởng cho sinh viên, thạc sĩ và tiến sĩ ngành Lịch sử Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Đại học Thái Nguyên, Trường Đại học Hồng Đức, Trường Đại học Vinh, Đại học Huế, Đại học Đà Nẵng, Đại học Quy Nhơn, Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh. Ngoài ra còn trao thưởng cho các công trình nghiên cứu sử học và hoạt động truyền bá tri thức lịch sử. Tổng giá trị trao hàng năm khoảng 250 triệu đồng.
9. Hiện tại:
- Đào tạo Đại học và Sau Đại học từ cử nhân đến tiến sĩ của hai lĩnh vực Lịch sử và Văn hóa:
+ 2 ngành cử nhân: Lịch sử, Văn hóa học.
+ 3 ngành thạc sĩ: Lịch sử, Văn hóa học, Quản lý Văn hóa.
+ 2 ngành tiến sĩ: Lịch sử, Quản lý Văn hóa.
- Số lượng người theo học hàng năm do Khoa quản lý: Khoảng 700 SV chính quy; khoảng 30 HV ThS; khoảng 20 NCS TS.
Sứ mệnh và tầm nhìn: Là một bộ phận đào tạo của trường theo định hướng phát triển của một trường đại học nghiên cứu, khoa Lịch sử đã lập kế hoạch phát triển với những mục tiêu, định hướng, quy mô phát triển và quan điểm chỉ đạo, các nhiệm vụ ưu tiên… thể hiện rõ sứ mệnh và tầm nhìn đến năm 2035 của Khoa:
Sứ mệnh: Tiếp tục giữ vai trò là một trung tâm có uy tín về nghiên cứu và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao; nghiên cứu, sáng tạo và truyền bá tri thức khoa học lịch sử, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Tầm nhìn: Nâng cao chất lượng sản phẩm nghiên cứu khoa học phục vụ cho sự nghiệp đào tạo, đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động và từng bước hội nhập quốc tế về khoa học và giáo dục.
Triết lý giáo dục:
Giáo học tương trưởng được xác định là triết lý giáo dục của Khoa Lịch sử trong chiến lược duy trì và phát triển vị thế của Khoa luôn là một trung tâm hàng đầu Việt Nam trong đào tạo, nghiên cứu và ứng dụng các khoa học lịch sử. Triết lý này thừa nhận và thúc đẩy tiến trình Người dạy và người học tương tác, hỗ trợ nhau cùng trưởng thành.
10. Định hướng phát triển:
Mục tiêu phát triển
Tiếp tục giữ vị trí và phát huy vai trò trung tâm hàng đầu của Việt Nam, có uy tín quốc tế về đào tạo, nghiên cứu khoa học và chuyển giao kết quả nghiên cứu, phục vụ cộng đồng trong các lĩnh vực của khoa học lịch sử, văn hóa và di sản.
Tầm nhìn phát triển
- Duy trì sự phát triển hữu cơ của hai trụ cột Lịch sử và Văn hóa, ba ngành đào tạo Lịch sử, Văn hóa học, Quản lý văn hóa và hai định hướng khoa học cơ bản và ứng dụng; đồng thời linh hoạt trong xây dựng các nhiệm vụ mới phù hợp với những biến đổi của bối cảnh đào tạo, nghiên cứu và ứng dụng.
- Phát triển song hành hai định hướng: đáp ứng nhu cầu linh hoạt của thị trường lao động, đồng thời giữ vững và tiếp tục phát triển với số lượng phù hợp lĩnh vực khoa học cơ bản.
- Đẩy mạnh hơn nữa hoạt động hợp tác nghiên cứu và phục vụ cộng đồng; thực hiện trách nhiệm quốc gia trong tư vấn với Đảng và Nhà nước về các lĩnh vực lịch sử và văn hóa.
Giải pháp phát triển
- Xây dựng nguồn nhân lực chất lượng đạt và vượt mức bình quân của Nhà trường; từ cả hai nguồn: thu hút nhân lực chất lượng cao bên ngoài và đào tạo nguồn người học tốt nghiệp của Khoa. Cần đặc biệt quan tâm đồng hành và hỗ trợ cán bộ để họ vượt khỏi “Bẫy khoa học trung bình“ hay “Thợ dạy“, tiếp tục nghiên cứu và cống hiến cho lĩnh vực chuyên môn hẹp mà họ theo đuổi từ khi viết luận án.
- Xây dựng cơ sở dữ liệu lớn về các lĩnh vực liên quan và hoàn thiện khả năng đáp ứng yêu cầu về dữ liệu cho công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học và phục vụ cộng đồng. Trong đó, đặc biệt quan trọng hai nhiệm vụ: số hóa tư liệu và phiên dịch sử liệu Hán Nôm, các công trình nghiên cứu nước ngoài về lý thuyết, phương pháp luận và tư liệu mới. Trước đây, những năm 1960-1980, các công trình được biên soạn và có ảnh hưởng cao một phần là nhờ sự hỗ trợ của đội ngũ cán bộ biên dịch tư liệu vốn là những nhà Hán học uyên thâm như các cụ, các bác Trần Lê Nhân, Đoàn Thăng, Ngô Lập Chi, Kiều Hữu Hỷ, Trần Lê Hữu, Phan Duy Tiếp...
- Vun bồi vị thế của khoa dựa trên các sản phẩm: những công bố tiêu biểu trong và ngoài nước, bộ giáo trình đặc trưng, các nhà khoa học có ảnh hưởng, sản phẩm nghiên cứu ứng dụng rộng rãi, cựu sinh viên thành đạt… Nhu cầu nghiên cứu về lịch sử và văn hóa Việt Nam của các nước trong khu vực và trên thế giới còn nhiều, tuy nhiên phần lớn các nghiên cứu này sử dụng các tài liệu được công bố bằng tiếng Anh. Do đó, việc thúc đẩy công bố các công trình nghiên cứu, nhất là các nghiên cứu mang tính dữ liệu của lịch sử Việt Nam là cần thiết. Nhà trường và Khoa cần có chính sách hỗ trợ các công bố quốc tế này. Việc tiếp tục xây dựng bộ giáo trình mới (đã triển khai từ 2020) của ngành Lịch sử và Văn hóa cần được đẩy mạnh và sớm hoàn thành trong những năm tới.
- Đề nghị các cơ quan chức năng (Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Khoa học và Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường Đại học KHXH&NV) cần có chính sách đặc thù với các ngành khoa học cơ bản cốt lõi quốc gia: Cơ chế tiếp nhận các đề xuất chính sách (của Chính phủ) thể hiện trách nhiệm quốc gia; Cơ chế đặt hàng các chương trình nghiên cứu nhằm giải quyết các vấn đề trọng yếu quốc gia về lịch sử và văn hóa (của ĐHQGHN, Bộ KH&CN); Cơ chế hỗ trợ trao đổi học thuật trong và ngoài nước (của ĐHQGHN, Trường ĐHKHXH&NV); tìm kiếm nguồn tài trợ cho các định hướng học thuật hãn hữu, như học và dịch thuật chữ Champa, Phù Nam cổ (của ĐHQGHN, Bộ GĐ&ĐT); Duy trì sự phát triển của chuyên ngành đặc biệt như Lý luận sử học, Khảo cổ học (của ĐHQGHN, Bộ GĐ&ĐT); Cán bộ giảng dạy có thời gian cá nhân (1-2 học kỳ cho mỗi 3-5 năm công tác) để thực hiện công trình nghiên cứu chuyên sâu của mình (của ĐHQGHN, Trường ĐHKHXH&NV)...
PGS.TS Đặng Hồng Sơn
Trưởng Khoa Lịch sử