Như vậy, trong 309 bằng khoán của 2 phố được lập vào hai năm 1943-1944, mức sở hữu trung bình của mỗi bằng khoán là 167,56m2. Con số này không sai lệch nhiều so với số liệu mà Philippe Papin đã thống kê được từ các sổ thuế đất từ năm 1889-1940. Khi đó, kích thước trung bình của một lô đất tối thiểu là 150m2 [8]. Trong số 309 bằng khoán trên có 267 bằng khoán (86,4%) thuộc sở hữu tư với tổng diện tích 47210m2 (chiếm 91,18%), còn 42 bằng khoán (13,6%) là sở hữu công với tổng diện tích 4565m2 (chiếm 8,82%).
Dễ dàng nhận thấy, nếu tính theo tỷ lệ thì diện tích trung bình của mỗi bằng khoán tư 176,82m2, lớn hơn rất nhiều so với diện tích trung bình mỗi bằng khoán công 108,69m2. Điều này có thể lý giải do hầu hết các khoảnh đất sở hữu công thường nhỏ, thậm chí chủ yếu là một vài m2, chỉ có một vài công trình công cộng, thí dụ như các đình, chùa hay hội quán là có diện tích lớn khiến mức sở hữu công trung bình không cao. Trong đó, rộng nhất phải kể tới Hội quán của người Hoa (1940m2) ở phố Hàng Buồm. Đó là Hội quán của người Quảng Đông, nay vẫn còn ở số 22 Hàng Buồm nhưng diện tích bị thu hẹp nhiều.
Đất công là loại đất thuộc tài sản chung của thành phố Hà Nội. Mặc dù trong các tấm bằng khoán nhiều khi không ghi rõ mục đích sử dụng, nhưng trong hoạt động quy hoạch của thực dân Pháp, các mảnh đất công này có thể có do cắt từ đất của các sở hữu tư để làm đường, vỉa hè, cống rãnh,… xây dựng cơ sở hạ tầng nói chung. Từ khi làm chủ được Hà Nội (1888), thực dân Pháp đã tiến hành cải tạo đường sá nhưng phải từ sau những năm 1920 thì hệ thống giao thông trong khu phố cổ mới thực sự được sắp xếp, chỉnh trang một cách có quy mô với các dự án đề xuất tỉ mỉ, chi tiết cho từng khu phố. Công việc này chủ yếu là “phá bỏ các cổng ngăn giữa các phường nghề trong phố cùng nhiều lều quán trước nhà, mở rộng, nắn thẳng và trải đá mặt đường đồng thời tạo vỉa hè lát gạch cùng hệ thống cống rãnh thoát nước…”.
Bên cạnh đó, đất công còn dùng để đền bù cho các ngôi nhà sát lề đường đã bị phá bỏ.
Tuy nhiên, trên thực tế việc chỉnh trang, tu sửa đường trong khu phố cổ chỉ được người Pháp chú trọng đối với những con đường trọng yếu – trục xương sống của khu phố hoặc những con đường ở vị trí điểm nút giao thông then chốt. Lòng đường được mở rộng thông qua việc trưng dụng đất của những nhà nhô ra bên ngoài so với phần đường quy hoạch. Bộ mặt những con đường ở khu phố cổ phần nào thay đổi, phố rộng hơn, liên hoàn tạo thành một mạng lưới liên tục thuận tiện cho các hoạt động giao thương.
Trong khi đó, các nhà tư nhân ở phố Hàng Bạc và Hàng Buồm chủ yếu thuộc về người Việt, người Hoa, chỉ có 3 người là quốc tịch châu Âu. Thăng Long – Hà Nội, vùng đất kinh kỳ này đã từng hấp dẫn không chỉ nhiều những người Việt ở các vùng tứ trấn về đây lập nghiệp mà còn cả thương nhân Hoa Kiều và người châu Âu đến đây sinh sống từ các thế kỷ trước. Claude Bourrin đã ước tính cho đến đầu thế kỷ XX, Hà Nội có khoảng 100.000 người An Nam, 1088 người châu Âu và 2.000 người Hoa sinh sống[9]. Riêng khu vực 36 phố phường tập trung chủ yếu là người Việt và người Hoa. Với không gian kiến trúc, hoạt động kinh tế và những sinh hoạt văn hóa riêng biệt, người Hoa cùng với người Việt đã tạo nên sắc thái đa dạng cho diện mạo của khu 36 phố phường.
Trong phạm vi hai phố Hàng Bạc và Hàng Buồm, phân bố sở hữu của người Việt, Hoa và những người Âu cụ thể như sau:
Bảng 5: Phân bố sở hữu tư theo phố và quốc tịch (m2)
Có thể nhận thấy ngay người Việt (người bản xứ) chiếm hơn 3/4 số lượng chủ tư hữu (205/267, »76,8%), rồi đến người Hoa (59/267, »22,1%), số người Âu không đáng kể (3/267, =1,1%).
Bảng 5 cũng cho thấy, mức sở hữu tư trung bình là 176,82m2, trong đó diện tích trung bình mỗi thửa đất của người Việt là 135,16m2, nhỏ nhất. Người Việt thuộc phạm vi khu phố cổ nói chung và trong 2 phố nói riêng, một phần trong số họ là người Hà Nội gốc, phần khác là những người thợ thủ công di cư từ các làng nghề thuộc tứ trấn ra hành nghề tại các phố phường Thăng Long trong nhiều thế kỷ trước, hoặc là giới trí thức sau khi học hành thi cử đỗ đạt ở lại mảnh đất này để lập nghiệp. Trong đó, tầng lớp thợ thủ công – thương nhân chiếm đa số. Họ là những người sản xuất và lưu thông hàng hóa trong hệ thống của một nền sản xuất nhỏ.
Bên cạnh người Việt, một bộ phận quan trọng tạo nên diện mạo đa dạng của dân cư phố cổ là các thương nhân Hoa kiều. Họ có khi sinh sống và kinh doanh trên một khu phố riêng, có khi sống xen lẫn cùng các thợ thủ công – thương nhân người Việt. Diện tích những lô đất thuộc sở hữu của người Hoa thường lớn, trung bình là 312,39m2, gấp hơn 2,31 lần so với diện tích trung bình mỗi thửa đất thuộc sở hữu người Việt. Và nói như Paulette Girard và Michel Cassagnes thì “những căn nhà chạy sâu nhất và rộng nhất đều thuộc về những thương nhân giàu có nhất” [10]. Điều này cũng dễ hiểu bởi những người Hoa đến sinh sống và lập nghiệp ở phố cổ thường là những thương nhân giàu có, trong cơ cấu dân cư họ được coi là tầng lớp “phú thương thành thị”, nắm trong tay những số vốn lớn và độc quyền buôn bán, kinh doanh nhiều mặt hàng. Họ có điều kiện để mua những lô đất có diện tích lớn vừa kết hợp kinh doanh buôn bán và sinh hoạt gia đình. Nhận xét này hoàn toàn phù hợp với kết quả nghiên cứu của Philippe Papin về sự khác biệt giữa mật độ dân số của người Việt, người Hoa và người Âu ở Hà Nội những năm 1921-1923 [11]. Ngoài người Hoa, ở phố Hàng Buồm còn thấy xuất hiện 3 chủ sở hữu là những người quốc tịch châu Âu. Họ có mức sở hữu trung bình về nhà đất lớn nhất (357m2), nhiều hơn cả của người Hoa, và đặc biệt gấp tới 2,64 lần mức sở hữu của người bản xứ. Rất tiếc là tư liệu không cho biết cụ thể đó là những người nước nào, song chúng tôi cho rằng chủ yếu đó là những người quốc tịch Pháp.
Có thể nhận thấy, nguồn gốc dân cư giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành diện mạo của các phố cổ Hà Nội. Cũng như một số phố nghề khác trong khu phố cổ Hà Nội, dân Hàng Bạc người Việt (146/150= 97%), vốn xuất thân từ 3 làng nghề khác nhau (Định Công, Thanh Trì, Hà Nội; Đồng Xâm, Thái Bình; và Châu Khê, Hải Dương), qui tụ về chốn thị thành sinh sống, tạo nên phố nghề từ nhiều thế kỷ trước, đến giữa thế kỷ XX, tuy chịu ảnh hưởng chung quá trình đô thị hóa dưới tác động của thực dân Pháp song thành phần cơ bản của cư dân phố này vẫn không thay đổi.
Trong khi đó, người Hoa tập trung nhiều nhất ở phố Hàng Buồm với 55/117 chủ (47%), sở hữu 64,03% diện tích nhà đất. Đặc biệt, phố Hàng Buồm cho đến những năm 40 của thế kỷ XX vẫn còn tới 4 bằng khoán ghi là đất của Hội quán của người Hoa (2773m2), 1 trường dạy Pháp ngữ (548m2) do Hoa kiều (Hồng Lai Kỳ) phụ trách và 1 bệnh viện của người Hoa tuy diện tích không lớn (104m2). Khu vực Hàng Buồm được ví như trung tâm “China Town” ở Hà Nội, là nơi sinh sống và làm ăn tấp nập nhất của người Hoa. Cuộc sống sinh hoạt và buôn bán của những Hoa kiều trên phố Hàng Buồm đã làm nên những nét đặc trưng cho con phố này. Từ năm 1979, khi xảy ra xung đột ở biên giới phía bắc Việt Nam, số lớn Hoa kiều ở Hàng Buồm nói riêng, Hà Nội nói chung di cư về Trung Quốc hoặc sang một nước thứ 3 thì diện mạo con phố này có những đổi thay đáng kể. Nay phố Hàng Buồm tuy vẫn là phố buôn bán song không có nhiều thương nhân là người Hoa, các mặt hàng buôn bán cũng như mật độ hàng hóa không phong phú bằng trước năm 1979.
2.4. Cơ cấu sử dụng đất
Không chỉ khác nhau về diện tích sở hữu mà cơ cấu sử dụng đất của mỗi đối tượng sở hữu cũng khác nhau. Ta có bảng số liệu tổng hợp sau:
Bảng 6: Mật độ xây dựng[12]
Trên khu phố cổ nói chung, 2 phố nói riêng, đều là dạng nhà ống, không gian ở và sinh hoạt, buôn bán xen kẽ nhau. Trong tương quan giữa 3 khu vực: phía tây Hà Nội (khu vực Hoàng thành), khu phố cổ và khu phố cũ (hay còn gọi là khu phố Pháp) thì khu phố cổ là khu vực ít được xây dựng mới, nhưng mật độ dân số cũng như mật độ xây dựng lại cao nhất [13]. Tuy vậy, theo thống kê từ tư liệu địa chính thì đến những năm 40 của thế kỷ XX, mật độ xây dựng ở 2 phố nghiên cứu chưa cao: tỷ lệ chung là 46,76%, trong đó phố Hàng Buồm cao hơn (53.58%). Hiện nay, theo thống kê về nhà ở Hà Nội, mật độ xây dựng trong khu phố cổ lên tới hơn 80% [14].
Bảng 6 cho chúng ta cái nhìn so sánh đa chiều về mật độ xây dựng của các đối tượng khác nhau trên hai phố Hàng Bạc và Hàng Buồm. Cùng chủ sở hữu là người Việt song những ngôi nhà trên phố Hàng Buồm có mật độ xây dựng cao nhất (63.52%), gấp hơn 1,7 lần so với mật độ xây dựng của nhà người Việt ở phố Hàng Bạc. Trong khi đó, nhà của chủ sở hữu người Hoa ở cả hai phố có mật độ xây dựng xấp xỉ nhau (48.92% và 43.45%).
Nhìn trên tổng thể từng tuyến phố, mật độ xây dựng của phố Hàng Buồm (53.58%) cao hơn hẳn so với Hàng Bạc (37.54%). Hay nói cách khác, phân bố không gian xây dựng và khoảng trống của sân, giếng trời, không gian trong các phố không đồng nhất: ở phố Hàng Buồm nhà cửa san sát hơn, trong khi đó, trên phố Hàng Bạc, phần đất để thông thoáng, không xây dựng vẫn còn chiếm tỷ trọng đáng kể (62.46%) trong tổng diện tích đất.
Hệ số sử dụng đất được hiểu là tổng diện tích mặt sàn xây dựng trên diện tích toàn khu đất. Mật độ xây dựng và hệ số sử dụng đất là những nhân tố quan trọng để tìm hiểu về quy mô và cơ cấu đất đai của một vùng.
Hệ số sử dụng đất của 2 phố:
Trên tổng thể, hệ số sử dụng đất của 2 phố xấp xỉ là 0.519. Đây được coi là hệ số thấp[15]. Điều này có thể lý giải do mật độ xây dựng chung cả 2 phố không cao (46.76%). Thêm vào đó, đến những năm 40 của thế kỷ XX, mật độ dân số cũng như nhu cầu xã hội chưa đến mức cần thiết khiến việc mở rộng diện tích sinh hoạt bằng cách xây thêm gác 2 và 3 không nhiều, phần diện tích nhà tạm (nhà tôn) cũng không cao, khiến cho tổng mặt sàn xây dựng chỉ xấp xỉ 0.5.
Nếu xem xét theo đơn vị phố, hệ số sử dụng đất có sự chênh lệch giữa các phố. Tỷ lệ thuận với mật độ xây dựng, hệ số sử dụng đất của phố đông Hoa kiều (Hàng Buồm) lớn hơn hẳn so với các phố của người bản xứ (Hàng Bạc). Hay nói cách khác, ở phố Hàng Buồm, nhà cửa san sát hơn và cũng có nhiều nhà cao tầng hơn phố Hàng Bạc.
Có thể nói, đến giữa thế kỷ XX, bức tranh qui hoạch khu phố cổ tuy không có những biến đổi mạnh mẽ như khu phố Tây song ngấm ngầm từng bước, những dấu vết làng xã đã dần bị lọc bỏ, khu phố cổ Hà Nội đang dần biến đổi trong quá trình đô thị hóa, trở thành một khu vực có cấu trúc và chức năng thuần đô thị.
Trong quá trình vận động và biến đổi đó, loại hình sở hữu (công hoặc tư) cũng như tính đa dạng của thành phần cư dân (người Việt, người Hoa hoặc người Âu) là những tác nhân quan trọng tạo nên hình ảnh khác biệt giữa các ngôi nhà, các con phố trong khu phố cổ Hà Nội. Bên cạnh đó, mật độ xây dựng, hệ số sử dụng đất được coi là các chỉ số quan trọng tạo nên diện mạo riêng của mỗi phố cổ Hà Nội. Và các di tích lịch sử – văn hóa là những nét chấm phá riêng, tạo nên cái hồn cho phố cổ.
Ảnh hưởng của những biến đổi kinh tế thời kỳ thực dân kéo theo sự thay đổi cấu trúc xã hội, đa dạng hoá thành phần dân cư nơi đây cũng là những yếu tố làm nên sắc thái đa diện về kiến trúc và thúc đẩy sự biến chuyển diện mạo, không gian khu phố cổ. Yêu cầu của cuộc sống mới, tính “thích dụng” trong quan niệm Ở của phương Tây cùng vật liệu và kỹ thuật xây dựng mới được du nhập vào Việt Nam đã làm biến đổi một phần nhà hàng phố truyền thống của Hà Nội. Một kiểu nhà mới bằng gạch kiên cố từ 2 đến 3 tầng đã dần được xây dựng trên nền cũ của ngôi nhà bằng tranh hay lá cũ quen thuộc tại khu vực 36 phố phường. Kiểu nhà mới thể hiện cách tổ chức các không gian chức năng bên trong tương đối hợp lý mà vẫn khai thác được những đặc điểm phù hợp của hệ thống các sân trong vào mục đích thông thoáng tự nhiên cho các phòng ở, tạo điều kiện thoả mãn nhu cầu truyền thống của người Việt là gắn bó với không gian cây xanh thiên nhiên, dù đó là không gian thiên nhiên thu nhỏ…
Những kết quả thu được từ phân tích, xử lý tư liệu ở hai phố Hàng Bạc và Hàng Buồm không chỉ cho phép có những phác họa lý thú về diện mạo của hai con phố này, mà còn xác định hướng tiếp cận đúng đắn đối với nguồn tài liệu địa chính. Chúng tôi hy vọng trong tương lai gần sẽ tiếp tục triển khai nghiên cứu đối với toàn bộ 76 phố cổ để có đủ những thông tin cần thiết, toàn diện, góp phần hữu ích cho việc hoạch định kế hoạch bảo tồn và phát triển phố cổ Hà Nội, bảo đảm sự hài hòa giữa truyền thống và hiện đại, giữ gìn bản sắc văn hóa của Thủ đô nói chung, cái hồn phố cổ nói riêng, nhất là nhân dịp đại lễ kỷ niệm Thăng Long – Hà Nội tròn 1000 năm tuổi!
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH
1. Claude Bourrin,
Đông Dương ngày ấy 1898-1908, Nxb. Lao động, Trung tâm văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội, 2008.
2. Cục Lưu trữ Nhà nước, Trung tâm lưu trữ quốc gia I,
Lịch sử Hà Nội qua tài liệu lưu trữ: địa giới hành chính Hà Nội từ 1873 đến 1954, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2000.
3. Cục Lưu trữ Nhà nước, Trung tâm lưu trữ quốc gia I,
Service du Cadastre et du Domaine de Ha Noi (Phông Sở địa chính Hà Nội).
4. Hoàng Đạo Thuý,
Phố phường Hà Nội xưa, Nxb. Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 2000.
5. Lưu Đình Tuân,
Công cuộc xây dựng của người Pháp trên đất Hà Nội, Xưa và Nay, số 71, 1/2000.
6. Nhiều tác giả,
Thăng Long – Hà Nội, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2000.
7. Nhiều tác giả,
Tôn tạo phố cổ ở các thành phố châu Á và châu Âu: Trao đổi kinh nghiệm trong lĩnh vực bảo tồn và nâng cao giá trị di sản, Kỷ yếu hội thảo quốc tế, Hà Nội, 2005.
8. Nhiều tác giả,
Hà Nội chu kỳ của những đổi thay: Hình thái kiến trúc và đô thị, Nxb. Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội, 2003.
9. Nhiều tác giả,
Tìm hiểu vấn đề nhà ở của Hà Nội – Một kinh nghiệm liên văn hoá trong hợp tác đại học, Nxb. Trường Đại học Tổng hợp Laval, Québec, 2006.
10. Nguyễn Thừa Hỷ,
Thăng Long – Hà Nội thế kỷ XVII-XVIII-XIX, Hội Sử học Việt Nam, Hà Nội, 1993.
11. Nguyễn Văn Uẩn,
Hà Nội nửa đầu thế kỷ XX, Nxb. Hà Nội, Hà Nội, 2000.
12. Phan Huy Lê (Chủ biên),
Địa bạ cổ Hà Nội, tập I và II, Nxb. Hà Nội, Hà Nội, 2005 và 2008.
13. Phillipe Papin,
Hanoi et ses territoires, in trong BEFEO, 1995.
14. Phillipe Papin,
Densité du bâti urbain et modes de construction à Hanoi 1889-1940 (Mật độ nhà ở đô thị và kiến trúc nhà ở Hà Nội 1889-1940), in trong Habitat et Developpement, số 10, năm 1995 của trường Ecole d’ Architecture de Marseille.
15. Trần Huy Liệu (Chủ biên),
Lịch sử thủ đô Hà Nội, Nxb. Hà Nội, Hà Nội, 2000.
16. PGS. Trần Hùng, TS.KTS. Nguyễn Quốc Thông,
Thăng Long – Hà Nội mười thế kỷ đô thị hoá, Nxb. Xây dựng, Hà Nội, 2004.
[1] Phan Huy Lê (Chủ biên),
Địa bạ cổ Hà Nội, tập I, Nxb. Hà Nội, Hà Nội, 2005.
[2] André Masson,
Hà Nội giai đoạn 1873-1888 (bản dịch), Nxb. Hải Phòng, 2003.
Claude Bourrin,
Bắc Kỳ xưa (Nguyễn Tiến Quỳnh dịch), Nxb. Giao thông Vận tải, Hà Nội, 2007.
Nguyễn Văn Uẩn,
Hà Nội nửa đầu thế kỷ XX, Nxb. Hà Nội, Hà Nội, 2000.
[3] Theo Quyết định số 70 BXD/KT do Bộ Xây dựng ban hành ngày 30/3/1995, giới hạn khu phố cổ Hà Nội như sau:
– Phía Bắc: phố Hàng Đậu.
– Phía Tây: phố Phùng Hưng.
– Phía Nam: phố Hàng Bông, Hàng Gai, Cầu Gỗ, Hàng Thùng.
– Phía Đông: phố Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật
Như vậy, khu phố cổ bao gồm 76 tuyến phố, thuộc 10 phường. Trong đó, khu vực bảo vệ, tôn tạo cấp I là tứ giác gồm các phố Hàng Chiếu (bắc); Hàng Đường, Hàng Ngang (tây); Hàng Bạc, Hàng Mắm (nam); Trần Nhật Duật (đông).
[4] Tham khảo thêm trong luận án TS. Sử học của Phan Thanh Hải
Các thủ phủ thời chúa Nguyễn (1558-1775) trên đất Quảng trị và Thừa Thiên – Huế, Huế, 2008, tr.152.
[5]
Bulletin municipale de la ville de Hà Nội, 1915 (Công báo thành phố Hà Nội năm 1915), p.23-24.
[6] Theo những ghi chép của địa bạ và các bản đồ Hà Nội cổ thì đến cuối thế kỷ XIX, khu vực này vẫn còn khá nhiều hồ nhỏ. Sang nửa đầu thế kỷ XX, các hồ ở đây mới dần bị san lấp. Xem thêm Phan Phương Thảo,
Cảnh quan mặt nước của Hà Nội qua tư liệu địa bạ. Trong
Địa bạ cổ Hà Nội, tập II, Nxb. Hà Nội, Hà Nội, 2008.
Theo Hồ sơ số 28 tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I: Hiểu biết về đất thuộc sở hữu thuộc địa trong thành phố Hà Nội (1890-1895), Nghị định ngày 26/5/1891 của Toàn quyền Đông Dương (phông Sở địa chính Hà Nội) quyền sở hữu đất hồ, ao trên địa bàn Hà Nội của thực dân Pháp được ghi rõ:
"Điều 1: Những đất ao, hồ ở vị trí sau được khẳng định thuộc tài sản công của thành phố Hà Nội:
Giữa phố Cầu Gỗ, phố Hàng Mành, phố Hàng Bạc và Hàng Đào
Giữa phố Hàng Bạc, Mã Mây, Hàng Buồm, Hàng Ngang
Giữa phố Hàng Đậu, đê và Hàng Than
Giữa phố nhà Thương Khách của Hàng Than, phố Hàng Bún
………….
Điều 4: Thành phố Hà Nội đánh thuế những người chiếm dụng đất ao, hồ công, những người này có nghĩa vụ thực hiện việc lấp ao trong thời hạn 1 năm được tính từ khi chuyển nhượng".
[7] Dẫn theo Trung tâm nghiên cứu kiến trúc, PGS. Trần Hùng, TS.KTS. Nguyễn Quốc Thông, Thăng Long –
Hà Nội mười thế kỷ đô thị hoá, Nxb. Xây dựng, Hà Nội, 2004, tr.74.
[8] Phillipe Papin,
Densité du bâti urbain et modes de construction à Hanoi 1889-1940 (Mật độ nhà ở đô thị và kiến trúc nhà ở Hà Nội 1889-1940), in trong Habitat et Developpement, số 10, năm 1995 của trường Ecole d’ Architecture de Marseille.
[9] Claude Bourrin,
Đông Dương ngày ấy 1898-1908, Nxb. Lao động, Trung tâm văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội, 2008, tr.52.
[10] Paulette Girard và Michel Cassagnes,
Khu phố cổ: Cấu trúc, đường phố và các lô nhà: phản ánh không gian của một xã hội, tr.280.
[11] Theo thống kê của Philippe Papin trong Hanoi et ses territoires, BEFEO, 1995:
[12] Mật độ xây dựng được hiểu là tỷ lệ đất được xây dựng (ở đây bao gồm cả gác 1 và nhà tạm) trên toàn bộ diện tích lô đất (tính theo%) như sau:
Mật độ xây dựng = |
Diện tích đất xây dựng . 100% |
Tổng diện tích |
[13] Phillipe Papin,
Densité du bâti urbain et modes de construction à Hanoi 1889-1940 (Mật độ nhà ở đô thị và kiến trúc nhà ở Hà Nội 1889-1940), in trong Habitat et Developpement, số 10, năm 1995 của trường Ecole d’ Architecture de Marseille.
[14] Nhiều tác giả,
Tìm hiểu vấn đề nhà ở của Hà Nội: một kinh nghiệm liên văn hóa trong hợp tác đại học, Nxb. Trường Đại học tổng hợp Laval, Quesbec, 2006.
[15] Theo qui định của Bộ Xây dựng, trong thành phố, hệ số xây dựng dưới 1 được coi là thấp.
PGS.TS. Phan Phương Thảo
Theo Website Khoa Lịch sử, khoalichsu.ussh.vnu.edu.vn, 11-11-2013.