Cấu trúc và giải cấu trúc bản sắc văn hoá Hà Nội (PGS.TS Nguyễn Văn Chính)

Thứ sáu - 11/08/2023 13:20
Bản sắc văn hóa như một cấu trúc tưởng tượng có thể trở thành một động lực lớn lao cho phát triển của thành phố tương lai nhưng bản sắc ấy cần được hướng đến mục tiêu hài hòa và cuộc sống tốt đẹp cho tất cả người dân thành phố thay vì chia rẽ và phân biệt.
CẤU TRÚC VÀ GIẢI CẤU TRÚC BẢN SẮC VĂN HÓA HÀ NỘI
 
1. Đặt vấn đề

Phần lớn các nghiên cứu về lịch sử và văn hóa Hà Nội cho đến nay thường bị ám ảnh bởi ý nghĩ rằng thành phố này có một bản sắc văn hóa riêng với những “đặc trưng khác với các vùng miền khác”[1]. Dẫu thừa nhận rằng cái bản sắc riêng ấy rất khó nhận diện và thấu hiểu, người ta vẫn mặc nhiên cho rằng bản sắc văn hóa Hà Nội là một thực thể hiển nhiên không có gì phải bàn cãi, và nhiệm vụ của nhà nghiên cứu chỉ là đi tìm cho ra cái bản sắc ấy. Nỗi ám ảnh của giả thuyết về một bản sắc văn hóa riêng của Hà Nội đã làm nảy sinh chủ nghĩa hoài cổ và biến các công trình khoa học thành những bản tụng ca, gán cho thành phố này những giá trị vượt thời gian và không gian, tạo ra một lớp sương mờ ảo như huyền thoại phủ lên trên thành phố ngàn năm tuổi nhưng vẫn đang không ngừng đổi thay này.

Nhìn lại các công trình nghiên cứu đã có về Hà Nội, chúng ta có thể nhận thấy dù rất nhiều về số lượng nhưng chúng đều dựa trên các cách tiếp cận theo hướng luận giải duy tình [moral interpretation], nặng về khoa trương hoặc phảng phất cái hơi hướng của thuyết văn hóa trung tâm và ngoại vi mà các nhà nghiên cứu phương Tây đã dầy công phát triển[2]. Tuy nhìn nhận Hà Nội như một trung tâm của hội tụ và lan tỏa văn hóa nhưng rất hiếm khi các nhà nghiên cứu chỉ ra một cách rõ ràng họ đang nói về Thăng Long – Hà Nội với tư cách là một đô thị, một tỉnh (gồm cả khu vực nông thôn và đô thị), hay một vùng trong khi các thuật ngữ “người Hà Nội”, bản sắc Hà Nội”, “lối sống Hà Nội”, “ngôn ngữ Hà Nội”, v.v. thường được sử dụng như một khái niệm hiển nhiên để từ đó, hàng loạt các giá trị được dán vào. Sự mơ hồ của khái niệm và sự thiếu vắng của một cơ cấu lý luận khi tiếp cận văn hóa và lối sống đô thị có lẽ là một trong những nguyên nhân chính của tình trạng không sản sinh ra được những nhận thức mới về bản chất văn hóa và những ngụ ý thực tiễn cho bảo tồn và phát triển văn hóa của Hà Nội bất chấp số lượng nghiên cứu về nó đang ngày càng trở nên đồ sộ[3]. Gạt bỏ những khác biệt và đồng nhất hóa tính đa dạng để tìm một mẫu số chung có tên gọi bản sắc văn hóa Hà Nội làm cho việc nhận diện các chiều kích văn hóa của thành phố – thủ đô trở nên khiên cưỡng và đầy cảm tính. Thêm vào đấy, việc lý tưởng hóa các giá trị văn hóa của thành phố lại đang tạo ra sức ép vô hình lên các nhà quản lý mà hậu quả của nó là làm nảy sinh những đòi hỏi về một cơ chế chính sách đặc thù như kiểu “Luật Thủ đô” mới được đưa ra thảo luận gần đây[4].

Trong bài viết nhỏ này tôi không có hy vọng cung cấp những tư liệu mới liên quan đến lịch sử văn hóa xã hội của thành phố. Thay vào đó, mong muốn của tôi là trên cơ sở những tư liệu đã có, đề xuất một cách tiếp cận khác để nhận diện chân thực hơn bản sắc văn hóa đô thị và góp phần trả lời câu hỏi liệu có hay không một bản sắc Hà Nội với tư cách là một thực thể văn hóa xác định, bền vững và bất biến mà các nhà nghiên cứu đã gán cho nó.

Nếu chúng ta quan niệm văn hóa đô thị như là một cấu trúc (construction) thì trong cấu trúc ấy có những yếu tố cấu thành, tạm gọi là các cấu trúc phụ (sub-constructions or component parts) tạo nên hình hài và sắc thái của cấu trúc tổng thể. Trong điều kiện của một thành phố, chúng ta có thể quan sát các nhóm cư dân và lối sống của họ như là những yếu tố cấu thành diện mạo văn hóa của thành phố mà ta hình dung như một cấu trúc tổng thể. Vận dụng cách tiếp cận này vào trường hợp Hà Nội, tôi sẽ cố gắng mổ xẻ lịch sử cư trú, không gian sinh tồn và đặc điểm xã hội của các cấu trúc phụ mà ở đây là các nhóm cư dân – chủ thể của văn hóa, để xem các bộ phận này có vai trò thế nào trong việc tạo nên một ám ảnh về bản sắc văn hóa Hà Nội. Tôi sẽ bắt đầu bằng việc khái niệm hóa không gian văn hóa Hà Nội, sau đó phân tích những năng động dân số học trong quá trình đô thị hóa, tính đa dạng về sắc tộc và chủng tộc của các bộ phận dân cư, những khác biệt trong không gian sinh tồn và lối sống cũng như mối liên hệ của chúng mà tôi cho rằng nó sẽ là những đầu mối giúp hiểu được bản chất của những giá trị được khái quát thành “bản sắc văn hóa” Hà Nội.

2. Nông dân và thị dân

Thanh lịch, hào hoa và tinh tế thường được các nhà nghiên cứu nhấn mạnh như những đặc tính tiêu biểu cho lối sống của người Hà Nội, thậm chí nó còn được đề cao như một giá trị “có tính mẫu mực, hay giá trị chuẩn của dân tộc, của đất nước”[5]. Cơ sở của lập luận như vậy có lẽ chủ yếu được khởi nguồn từ cảm hứng của hàng ngàn tác phẩm về Hà Nội dưới dạng các bài tản văn, thơ ca và hội họa hơn là từ những chứng cứ được thu thập và phân tích có hệ thống. Dù chịu ảnh hưởng của cảm xúc hay lý trí, các nhà nghiên cứu nói chung có khuynh hướng gắn lối sống thanh lịch ấy với tầng lớp thị dân ở một trung tâm đô thị phát triển vào bậc nhất của đất nước[6], cho rằng “lối sống ấy kết tinh văn hóa “Kinh kỳ” của giới nho sỹ và thương nhân “kẻ chợ” tập trung tại 36 phố phường, hòa với những yếu tố văn minh Pháp được tiếp thu bởi trí thức Tây học và viên chức nhà nước bảo hộ”[7].

Quan điểm về một lối sống “thanh lịch” như vậy được nói đến trong hầu hết các nghiên cứu về văn hóa Hà Nội nhưng thực ra chưa bao giờ được phân tích một cách khoa học. Tôi cho rằng ít nhất có ba yếu tố để nghi ngờ cái biểu tượng văn hóa này:

(1) Các nghiên cứu đều xem đô thị như là “tiêu chí của sự phát triển, tiến bộ và văn minh” nhưng cho đến tận gần đây Hà Nội vẫn chưa trở thành một đô thị hoàn chỉnh, vẫn chỉ ở “phía bên kia của làng xã”[8]. Trong không gian của “thành phố” luôn có một phần thuộc khu vực nông thôn và phần này lúc nào cũng ở vị thế lấn át so với phần thành thị. Điều này có nghĩa là không gian địa – văn hóa của Hà Nội luôn hàm chứa hai nhóm văn hóa và lối sống khác nhau song hành tồn tại. Đó là văn hóa của thị dân và văn hóa nông dân. Chỉ lấy lối sống của một nhóm thị dân để khái quát thành lối sống chung của “người Hà Nội” là một cách tiếp cận khiên cưỡng và không có cơ sở khoa học;

(2) Trong lịch sử và thậm chí là mới gần đây thôi, số lượng thị dân sống trong các khu phố luôn chiếm một tỷ lệ nhỏ hơn nhiều so với những người nông dân sống trong các làng xã truyền thống của Hà Nội. Bộ phận nhỏ thị dân này cũng không đồng nhất, bên cạnh tầng lớp quý tộc và quan chức thuộc tầng lớp cai trị là những trí thức, thương nhân, công chức, thợ thủ công và người buôn bán nhỏ. Phần còn lại là những người nhập cư, làm các công việc tạp dịch và lao động chân tay. Họ có mối liên hệ chặt chẽ với khu vực nông thôn ở nhiều làng quê thuộc các vùng miền khác nhau, và có xu hướng lưu giữ lối sống nông dân của mình ngay trong lòng thành phố. Vậy là ngay trong bộ phận thị dân nhỏ bé ấy vẫn có sự hiện diện của văn hóa và lối sống nông dân đối lập với văn hóa thị dân;

3) Nếu cho rằng cái chất hào hoa thanh lịch được hình thành từ nhóm “tinh hoa” là thị dân và quý tộc thì nhóm này cũng chỉ có thể đại diện cho lối sống của tầng lớp trên và giới trung lưu mà thôi. Không có cơ sở để lấy văn hóa và lối sống của nhóm “tinh hoa” này làm đại diện cho văn hóa của một thành phố. Lối sống của họ có thể là tiêu chuẩn để vươn tới, là giấc mơ của đông đảo dân chúng ở dưới đáy xã hội nhưng không phải là lối sống của số đông[9]. Lập luận cho rằng có một sự giao thoa giữa “văn hóa dân gian” của quần chúng nhân dân lao động bị áp bức và “văn hóa bác học” của giai cấp thống trị[10] để khái quát một đặc tính chung cho bản sắc Hà Nội chỉ là một biện hộ yếu chưa được chứng minh cả về lý luận và thực tế.

Thực ra, các tài liệu đã có về Thăng Long xưa, Hà Nội nay có thể cho phép hình dung được quy mô của khu vực đô thị, số lượng thị dân, và tính chất xen cài nông thôn – đô thị trong cấu trúc dân cư của thành phố để từ đó xem xét vai trò và ảnh hưởng của văn hóa thị dân – được cho là bộ phận cốt lõi tạo nên bản sắc “thanh lịch” của người Hà Nội. Tuy nhiên các nhà nghiên cứu lại dường như không mấy quan tâm xem xét những khía cạnh này.

Trong một nghiên cứu công phu sử dụng phương pháp GIS/RS, các nhà nghiên cứu cho biết thành Thăng Long gắn với các phố thị để tạo nên một đô thành cho đến trước thời thực dân chỉ là một khu vực có diện tích rộng không quá 1,2 km2. Kiểu kết hợp giữa thành (citadel), tức trung tâm hành chính – quốc phòng và thị – nơi buôn bán của Thăng Long là một dạng phổ biến thường thấy ở các đô thị phương Đông[11]. Nhà nghiên cứu nổi tiếng về Hà Nội Trần Quốc Vượng đã chỉ ra cấu trúc điển hình của thành Thăng Long gồm ba bộ phận: (1) Khu “thành thị quân vương”, tức khu vực hành chính, gồm thành quách, đền miếu, và nơi thưởng ngoạn của triều đình. Khu này chỉ chiếm một phần nhỏ thuộc phần lõi của quận Ba Đình ngày nay; (2) Khu “thành thị dân cư” hay còn gọi là khu phố thị mà cốt lõi là khu 36 phố phường còn lại đến hiện nay; (3) Khu vực thôn dã bao gồm các làng ở phía Nam và Bắc của trung tâm hành chính[12]. Kiến trúc kiểu phương Đông như vậy cũng thể hiện rõ bản chất chuyên chế của tầng lớp cai trị vì nó không quan tâm đến các công trình công cộng của thị dân. Khu vực phố thị chủ yếu để cung cấp hàng hóa cho nhu cầu của tầng lớp trên sinh sống trong khu hoàng thành hơn là nhu cầu phát triển trên một nền tảng kinh tế phi nông nghiệp. Đặt cái bộ phận đô thị và thị dân này vào trong bối cảnh Hà Nội cho đến cuối thế kỷ 19, tức trước khi nó biến thành một thành phố kiểu châu Âu thì chúng ta mới thấy cái quy mô thành thị và thị dân này nhỏ bé biết chừng nào: Thành cũ Thăng Long chỉ là một bộ phận nhỏ của phủ Hoài Đức, lọt thỏm vào trong cơ cấu của tỉnh Hà Nội thời Nguyễn – một tỉnh được lập ra vào năm 1831 gồm 4 phủ Hoài Đức, Ứng Hòa, Thường Tín và Lý Nhân[13].

Không thể phủ nhận một thực tế là khu vực thành thị đã được mở mang rất nhiều dưới thời thuộc Pháp. Chính người Pháp đã mang đến cho Hà Nội một khuôn mặt khác bằng cách tạo ra một đô thị kiểu châu Âu[14]. Khu lõi Ba Đình, nền cũ của Hoàng Thành hoang phế, vẫn tiếp tục được lựa chọn để xây dựng thành khu hành chính của thành phố. Khu 36 phố phường vẫn được bảo tồn làm nơi buôn bán dân sinh. Một khu vực hoàn toàn mới gồm đường sá, cầu cống, công sở, các phố thương mại và dịch vụ, các công trình công cộng như vườn hoa – công viên, nhà hát, và khu vực dành cho công chức, sỹ quan quân đội và các nhà tư bản đã được tạo ra. Thành phố Hà Nội lúc này đã mở rộng gấp đôi với 63 phường nhưng cũng chỉ có diện tích xấp xỉ 3km2 so với diện tích vỏn vẹn 1.2 km2 ở những thế kỷ trước. Vào thuở hoàng kim của Hà Nội thời thực dân những năm 1940, số dân Hà Nội lúc cao nhất cũng chỉ có 132145 người[15]. Khi Việt Minh vào tiếp quản Hà Nội 1954, thành phố chỉ còn 37000 người dân sống trong 34 khu phố thuộc 4 quận nội thành. Lúc này, sau nhiều lần thay đổi địa giới, diện tích thành phố (bao gồm khu vực nông thôn rộng lớn) đã mở rộng đến 152km2 nhưng dân số lại giảm so với những năm 1940, có lẽ do ly tán nhiều trong chiến tranh[16].

So với thời thực dân, không gian Hà Nội thực ra chỉ mới được mở rộng thêm bằng biện pháp hành chính trong vài thập kỷ qua, bắt đầu từ 1961 với việc nâng địa giới Hà Nội lên 584km2 và dân số 91000 người. Năm 1978 Hà Nội lại mở rộng địa bàn bằng cách nâng diện tích tự nhiên lên 2136 km2. Quá trình đô thị hóa cơ học bằng cách sáp nhập các làng vào khu vực thành phố trong nhiều thập kỷ đã làm dân số Hà Nội tăng lên đến hơn hai triệu người vào năm 1999. Đợt mở rộng địa giới gần đây nhất vào tháng 8 năm 2008, Hà Nội đã nâng dân số lên 6,4 triệu người, trong đó cư dân thành thị chỉ chiếm 41% và cư dân nông thôn chiếm đa số với 59%[17].

Một số nhà nghiên cứu đã từng đi tìm lời giải cho câu hỏi tại sao Thăng Long – Hà Nội trải bao thế kỷ thăng trầm mà vẫn bé nhỏ với số thị dân khiêm nhường chừng ấy, tại sao một dân tộc vĩ đại với những chiến công hiển hách lẫy lừng mà lại không để lại cho hậu thế những công trình kiến trúc xứng tầm? Hoàng Ngọc Kỷ cho rằng quá trình biển tiến và việc lấy đất đắp đê đã tạo nên những cái hồ Hà Nội, và chúng là những nhân chứng sống giúp lý giải tại sao hoàng thành lại bị chôn vùi, hết lớp này đến lớp khác chồng lấp lên nhau[18]. Ho Dinh Duan & Mamorou lại đưa ra kiến giải do vị thế bao bọc của sông hồ và đầm nước, thành Thăng Long khó mà mở rộng ra được[19]. Trong khi đó, sử gia Nguyễn Thừa Hỷ cho biết thành phố bị lụi tàn vì nạn binh đao trong suốt thế kỷ 18[20]. Trần Văn Giầu tìm kiếm câu trả lời ở triết lý văn hóa Thăng Long coi trọng tinh thần hơn vật chất, rằng “những kiến trúc tinh thần mang tính chất vĩ đại, vĩnh hằng sáng rực hơn bất kỳ đền đài nào khác”[21]. Những điều được viện dẫn ở trên đều ít nhiều liên quan đến sự thăng trầm và còi cọc về quy mô vật chất của khu vực đô thị Hà Nội trong lịch sử. Tuy nhiên, không gian của một thành phố và số lượng thị dân chủ yếu phụ thuộc vào điều kiện phát triển của nền kinh tế bởi vì chỉ khi nền kinh tế hàng hóa đủ mạnh để nuôi dưỡng khu vực không trực tiếp sản xuất thì mới tạo ra được một tầng lớp thị dân và doanh nhân đông đảo làm cho khu vực đô thị được mở mang. Với nền kinh tế nông nghiệp tự cấp là chủ đạo, và phần lớn người dân vẫn sống trong các làng quê, thì chúng ta có thể hiểu được tại sao quy mô của một đô thị bậc nhất trời Nam lại chỉ khiêm nhường đến thế.

Bằng cách cung cấp các dẫn liệu trên, tôi không có ý cho rằng chỉ với một tầng lớp thị dân nhỏ bé thì không đủ sức “lan tỏa văn hóa” ra cả một “đại dương” nông dân. Điều tôi muốn nhấn mạnh ở đây là khi nói đến Hà Nội như một thực thể văn hóa có bản sắc riêng, chúng ta không được quên rằng có một Hà Nội–nhà quê và một Hà Nội–kẻ chợ. Hai bộ phận cư dân này tuy tồn tại trong một cái khung của cơ cấu hành chính chung nhưng có văn hóa và lối sống khác nhau. Trong suốt trường kỳ lịch sử hàng ngàn năm của mình, bộ phận thị dân của Thăng Long – Hà Nội luôn nhỏ bé và yếu ớt, lại bị phân hóa thành các nhóm khác nhau với quyền lợi, thân phận và lối sống không đồng nhất. Sẽ là một thiếu sót khi phân tích bản sắc văn hóa Hà Nội mà lờ đi bộ phận văn hóa nông dân chiếm số đông trong khi có thiên hướng đề cao quá đáng văn hóa của tầng lớp thị dân và quý tộc nhỏ bé so với các tầng lớp xã hội khác. Với cách nhìn như vậy, tôi tán đồng nhận xét đích đáng của một nhà sử học khi ông cho rằng văn hóa nông dân mới là hằng số của lịch sử văn hóa Việt Nam:

Chính đất nước này, dân tộc hình chữ S này là đại dương của 3 chữ Nông: Nông thôn, Nông dân và Nông nghiệp. Ba chữ nông ấy là bản chất của dân tộc này, của văn minh văn hóa này. GS. Trần Quốc Vượng còn gọi 3 chữ Nông này là hằng số của lịch sử văn hóa Việt Nam. Trên cái mênh mông như thế, trong lịch sử có thực nổi lên lác đác những hòn cù lao, lác đác, hiếm ít và nổi lên cũng không được cao lắm, đó chính là những đô thị. Trong số đó, hòn cù lao lớn nhất là Thăng Long – Hà Nội[22].

3. Chính cư và ngụ cư

Nhà nghiên cứu Giang Quân, người đã viết tới 30 đầu sách về Hà Nội cho biết “trước đây có khoảng 9% người Hà Nội gốc, còn sau khi Hà Nội mở rộng thì có lẽ con số đó giảm xuống chỉ còn 5% (tính theo 6,3 triệu dân). Vì thế mà tính hào hoa, thanh lịch của người Hà Nội đang ngày một phôi pha”[23].

Thực ra, không có cơ sở khoa học nào khả dĩ có thể phân biệt được người Hà Nội gốc và người Hà Nội nhập cư. Câu hỏi đặt ra là một gia đình sống ở Hà Nội bao nhiêu lâu thì được xem là người Hà Nội gốc? Ngoài thời gian định cư ở Hà Nội thì còn có tiêu chí nào khác để xác định tính chất “gốc” của người Hà Nội? Chưa có nhà nghiên cứu nào có ý định làm rõ câu hỏi này nhưng dường như đang có một cách hiểu ngấm ngầm rằng người Hà Nội gốc là người có lối sống thanh lịch, đối lập với cách sống xô bồ và hỗn tạp của người Hà Nội nhập cư[24]. Vì vậy người ta mới la lên rằng cái chất hào hoa thanh lịch của Hà Nội nay đang mất đi là do làn sóng di dân ào ạt vào thành phố. Cách nói như vậy, theo tôi, chỉ là để thể hiện một ước vọng muốn phổ biến và phát triển những lối sống và thế ứng xử có văn hóa của người dân thành phố hơn là một thuộc tính phổ quát có thật đã từng tồn tại ở Hà Nội mà nay đã mất đi. Về một phương diện nào đó, có thể đồng ý với giả thiết của Hoàng Hưng[25] và Nguyễn Thừa Hỷ[26] rằng cái thuộc tính hào hoa thanh lịch mà ngày nay người ta xem là bản sắc chung của người Hà Nội thực ra chỉ trở nên phổ biến và được nói đến nhiều dưới thời cận đại, trong những gia đình trí thức, quan lại và công chức Tây học, trên cơ sở tiếp nối truyền thống kẻ sỹ của những đạo đức nho học trước đó. Nói như vậy cũng đồng nghĩa với việc thừa nhận rằng cái nếp sống thanh lịch ấy thực ra cũng không có tính chất “gốc” mà chủ yếu được hình thành và phát triển trên cơ sở của những gia đình nhập cư, vì phần lớn những người làm quan, học hành đỗ đạt và làm công chức trong bộ máy công quyền ở Hà Nội đều được tuyển dụng từ nơi khác đến và hợp thành một nhóm tinh hoa của đô thị.

Trên hành trình đi tìm bản sắc của “tiếng Hà Nội gốc”, nhà ngôn ngữ học Hoàng Hành xác định: “Người sinh ra và lớn lên ở (hai huyện) Vĩnh Thuận và Thọ Xương cùng với hậu duệ của họ là người Hà Nội gốc và tiếng nói của họ, thổ ngữ Vĩnh Thuận – Thọ Xương, chính là tiếng Hà Nội gốc”. Dẫu vậy, ông vẫn phải thêm rằng “sau khi định đô, người Hà Nội gốc không còn chỉ là cư dân của hai huyện Vĩnh Thuận và Thọ Xương nữa, mà còn gồm cả những người từ bốn trấn quanh đó về định cư ở nội thị”[27]. Điều này có nghĩa rằng tìm hiểu tiếng Hà Nội gốc tức là tìm hiểu cái ngôn ngữ đã được phát triển trên cơ sở hòa trộn tiếng nói của cư dân hai huyện này với những người nhập cư đến từ các vùng khác chứ không phải cái ngôn ngữ đã tồn tại từ trước khi có thành Thăng Long. Nói như vậy để thấy rằng cuộc tranh luận về thành phần gốc và mới của cư dân Hà Nội không chỉ phức tạp mà còn có nguy cơ đi vào ngõ cụt. Hơn thế, nó còn có thể dẫn tới cái bẫy của sự phân biệt đối xử giữa những người được xem là dân gốc với những người bị gán cho cái nhãn nhập cư. Câu chuyện này cũng giống như sự phân biệt chính cư và ngụ cư trong các làng truyền thống ở đồng bằng sông Hồng, nơi những người ngụ cư phải chịu nhiều thiệt thòi, phải trải qua nhiều đời với thân phận và vị thế chính trị rất thấp để được nhận cái danh là dân chính cư. Hà Nội đương nhiên không phải là một cái làng.

Nhìn lại quá trình tụ cư và cấu trúc dân số của Hà Nội từ trong lịch sử cho đến hiện tại, ta thấy tồn tại hai khu vực dân cư với độ tương phản rõ rệt trong các năng động dân số học. Khu vực nông thôn gồm các làng mạc thôn ấp thuộc các quận huyện ngoại thành về cơ bản không có xáo trộn lớn về dân cư. Lịch sử đời sống và ghi chép về lai lịch của các dòng họ sống trong các làng mạc mà người ta còn lưu giữ được đến ngày nay cho thấy mức độ tương đối ổn định về dân số trong một khoảng thời gian nhất định. Ngược lại, khu vực đô thị bao gồm các khu hành chính, các phường thủ công và buôn bán có dân số không đông, nhưng mức độ xáo trộn và thay đổi dân số lại diễn ra thường xuyên hơn. Bên cạnh tính năng động của một trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa thì Hà Nội cũng thường xuyên là mục tiêu hủy diệt của các cuộc chiến tranh, loạn lạc và ly tán. Thêm vào đó, phần lớn thị dân và thợ thủ công làm việc trong các khu phố thường vẫn giữ mối liên hệ chặt chẽ với làng quê gốc của họ. Những khi triều đình có biến hay bị thất bát trong kinh doanh thì nơi họ lui về vẫn là các làng quê gốc gác của cha ông. Trong khi đó, bộ phận trí thức, công chức và quan lại thì được tiếp nhận đến hoặc chuyển đi theo yêu cầu của nhà nước. Như đã nói tới ở trên, vào lúc hoàng kim của đô thị Hà Nội thời cận đại hồi đầu những năm 1940, tổng số dân sống trong khu vực đô thị cũng chưa tới 14 vạn người. Tuy nhiên con số này có lẽ chưa bao gồm những người dân di cư sống trong thành phố nhưng không có đăng ký chính thức. Bộ phận này chắc chắn không nhỏ. Họ chủ yếu là những người buôn thúng bán bưng, giúp việc nhà, làm các công việc nặng nhọc như phu xe hay khuân vác. Và nơi tá túc của họ thường ở những khu lao động tồi tàn vùng ven đô. 

Cũng giống như nhiều đô thành trên thế giới, Thăng Long – Hà Nội luôn luôn là một điểm đến hấp dẫn của nhiều luồng di cư. Luồng thứ nhất bao gồm những thành phần tinh hoa của đất nước. Họ là những người có tài năng, học vấn và vốn liếng, được tuyển dụng hoặc tự tìm đến chốn kinh kỳ để phát triển và thi thố với đời. Luồng thứ hai là những người dân cùng khổ từ các vùng nông thôn, do lao dịch, thuế má, thất bát, dịch bệnh và bóc lột, bị đẩy đến tình trạng bần cùng. Họ đổ về Thăng Long tìm cơ hội thay đổi cuộc đời và tạo nên những khu cư trú tồi tàn của người lao động vùng ngoại ô. Luồng di cư thứ ba là sự hiện diện của những người nước ngoài đủ mọi thành phần sắc tộc và chủng tộc, từ những thương nhân, nhà truyền giáo, nhà ngoại giao cho đến những người lao động nghèo hèn. Họ di chuyển vào các thành phố lớn để tìm kiếm cơ hội phát triển sự nghiệp hoặc chỉ đơn giản là để tìm kế sinh nhai. Bên cạnh luồng di cư đến thành phố, cũng có luồng di cư ra khỏi thành phố dù là tự nguyện hay cưỡng bức. Đặc biệt, các cuộc chiến tranh binh lửa, xung đột và cướp bóc đẫm máu thường là nguyên nhân làm cho số lượng cư dân khu vực đô thị giảm đi nhanh chóng. Chính sách của các nhà nước ở mỗi thời kỳ cũng khuyến khích hoặc ngăn chặn các luồng di dân vào thành phố làm cho dân số khu vực đô thị thay đổi thất thường. Tuy nhiên, hiện tượng nổi bật của các năng động dân số học khu vực đô thị chính là các dòng di cư.

Mặc dù các luồng di cư vào Hà Nội trong lịch sử khá đa dạng và liên tục, nhưng phần lớn điểm đến của những dòng chảy dân số này là khu vực đô thị. Vùng nông thôn ngoại thành được kiểm soát bởi các cộng đồng làng xã truyền thống với những tập tục khắt khe liên quan đến người ngụ cư có thể được xem là một trong những rào cản hữu hiệu chặn đứng các dòng người nhập cư vào làng xã. Mặt khác, điều kiện kinh tế và sở hữu đất đai như là nguồn tư liệu chủ yếu ở khu vực nông thôn đã không hấp dẫn người di cư. Như vậy, có thể thấy rằng thành phần cốt lõi của cư dân đô thị từ khi định hình thành Thăng Long cho đến hiện tại là người tứ xứ. Dòng di dân này có tính năng động cao nhưng không ổn định. Vị thế công dân của họ tùy thuộc vào thái độ của nhà nước ở mỗi thời kỳ. Họ có thể trở thành thị dân, trở lại là nông dân hoặc chỉ là những kẻ vagabonds lơ lửng giữa nhà nước và làng xã[28]. Trong con mắt của các nhà quản lý, người di cư từ nông thôn vào đô thị thường không được khuyến khích. Có tài liệu lịch sử cho thấy ngay từ thế kỷ 15, vua Lê Thánh Tông đã từng ra lệnh đuổi tất cả những người dân tứ xứ đổ về Thăng Long kiếm kế sinh nhai, và chỉ kịp sửa sai sau khi nhận thấy chính những người di cư đã góp phần quan trọng phát triển kinh tế của đô thành và đóng thuế nuôi triều đình[29]. Câu chuyện từ vài thế kỷ trước vẫn đang là vấn đề thời sự của Hà Nội hôm nay. Báo chí đưa tin các nhà chức trách Hà Nội chủ trương ngăn cản luồng nhập cư vào Hà Nội từ năm 2010 trở đi, đặc biệt là đối tượng lao động tự do từ các vùng nông thôn[30]. Thực ra, những cố gắng bằng biện pháp hành chính như vậy thường không đạt được thành công vì nó đi ngược lại quy luật phát triển và quá trình đô thị hóa của thành phố này. Thực chất của quá trình đô thị hóa là sự tăng trưởng tỷ trọng dân số sống trong khu vực thành thị. Đô thị phát triển tạo ra sức hút và trở thành động lực của dòng di dân vào thành phố, trong đó có cả những người lao động có trình độ cao và lao động phổ thông. Lao động nhập cư có thể làm cho thành phố tập trung nhiều người nghèo hơn, nhưng nó cũng là nơi mang lại niềm hy vọng của nhiều người dân muốn thoát khỏi đói nghèo. Hà Nội không thể trở thành một thành phố đóng vai trò trung tâm trong sự phát triển của quốc gia nếu không có đóng góp của những người dân di cư. Người lao động nhập cư vào thành phố thường chỉ tìm được việc làm trong nhóm những công việc khó khăn, nguy hiểm, từ quét rác tới các công việc nặng nhọc trong các công trường xây dựng nhưng đó là những việc cần thiết để thành phố có thể vận hành trôi chảy. Cũng chính dòng di cư này bổ sung nguồn lao động dồi dào cho khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Đặc biệt, họ còn là sự sống còn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ vốn dựa trên chi phí nhân công thấp và lao động bán công nghiệp. Từ khi thực hiện đổi mới, đô thị hóa bùng nổ như một cơn sốt và nhà quản lý đã không tìm ra được chính sách hữu hiệu dẫn đến lo ngại về người nhập cư sẽ làm quá tải thành phố và giải pháp quen thuộc dễ dàng nhất là cấm nhập cư. Nói như sử gia Nguyễn Thừa Hỷ thì “đó là cách quản lý theo kiểu “mục dân” (chăn dắt dân), “sử dân” (sai khiến dân) của các viên quan cai trị thời phong kiến, trong một xã hội thần dân”[31] và nó không thể thích hợp với mô hình quản lý một xã hội đô thị mở của thế kỷ 21. Các nghiên cứu về dòng di dân vào Hà Nội những năm qua cho thấy bộ phận lao động nhập cư luôn chiếm khoảng 10% dân số nội đô, trong đó có đến hơn 80% đến từ các tỉnh đồng bằng sông Hồng, và khoảng một nửa số lao động này là phụ nữ[32]. Một phân tích của Tổng cục Thống kê[33] cho thấy lao động di cư vào thành phố đều có thu nhập tăng lên so với lao động không di cư, trong đó lao động nhập cư vào Hà Nội đạt được mức thu nhập cao nhất so với các nơi khác. Nguồn thu nhập này đã góp phần quan trọng vào thu nhập của các hộ gia đình nông dân vốn chỉ dựa vào diện tích đất nông nghiệp chật hẹp và không có điều kiện cải thiện cuộc sống ở khu vực nông thôn.

Tóm lại, dân nhập cư luôn luôn là một bộ phận quan trọng trong cấu trúc dân số của Hà Nội, trong quá khứ đã như vậy, trong hiện tại và tương lai cũng sẽ vẫn tiếp tục như vậy. Các lớp người di cư vào thành phố không chỉ mang lại sức sống và những năng động kinh tế – xã hội cho khu vực đô thị, nó còn góp phần tạo nên bức tranh đa dạng và sống động trong đời sống văn hóa của thị dân. Vì thế, không có cơ sở để cho rằng các làn sóng dân nhập cư vào thành phố đã làm tăng tính xô bồ, hỗn tạp và làm phai nhạt lối sống thanh lịch của người Hà Nội.

4. Chủng tộc và sắc tộc

Cũng giống như mọi thành phố khác trên thế giới, Hà Nội là một đô thị đa sắc tộc. Có những sắc tộc khác nhau tham gia vào quá trình tạo dựng và phát triển của thành phố mà dấu ấn của họ còn lưu lại cả trong đời sống vật chất lẫn tinh thần của thủ đô. Điều đáng ngạc nhiên là trong khi hầu hết các tài liệu nghiên cứu về Hà Nội đều nhắc đến sự hiện diện của các nhóm cư dân như Hoa, Ấn, Chăm, Pháp và những sắc tộc thiểu số khác trong từng thời kỳ lịch sử của thành phố nhưng tính chất đa sắc tộc ấy trong bản sắc văn hóa Hà Nội lại hay bị lờ đi, ít được đi sâu phân tích. Khuynh hướng phổ biến là lý giải hiện tượng này theo lập luận “hấp thu” và “hòa tan” các yếu tố ngoại lai để biến thành văn hóa thuần Việt. Khuynh hướng đề cao tính bản địa trong các nghiên cứu về văn hóa Việt Nam nói chung, văn hóa Hà Nội nói riêng có lẽ không phải là sự vô tình. Trong sâu thẳm tư duy của các nhà nghiên cứu Việt Nam, cái tư tưởng bản địa chủ nghĩa có một vị trí đặc biệt. Lớn lên trong một xã hội mà tinh thần phản kháng thực dân hóa và chống biểu hiện ngoại lai dường như lúc nào cũng thường trực trong mỗi con người, việc nhìn nhận văn hóa thành phố thủ đô như một thực thể đa dạng về sắc tộc và chủng tộc, nhất là những sắc tộc ấy đã từng đô hộ và đồng hóa văn hóa Việt thì khó có thể chấp nhận được (!). Nhưng đó lại là một sự thực hiển nhiên cần được phân tích để làm rõ những gam màu đa sắc của văn hóa và cội nguồn của nó trong mỗi kiểu dáng kiến trúc, đền đài, trong những thói quen của đời sống thường nhật và trong cả cõi tâm linh sâu thẳm của con người thủ đô. Chính những yếu tố này, bằng những biểu hiện riêng của nó, cấu thành nên diện mạo văn hóa một đô thị, cũng giống như mỗi viên gạch tham góp vào việc tạo nên một tòa thành hoàn chỉnh mà nếu người ta rút tỉa nó đi, tòa thành ấy không còn nguyên vẹn.

Hà Nội đặc biệt ở chỗ nó là một thành phố kiểu Á – Âu điển hình và đây là nét độc đáo hiếm thấy trong các thành phố cổ châu Á. Tham góp vào việc tạo lập ra thành phố này, không thể không nói đến dấu ấn kiến trúc Hoa và Pháp. Các nhà sử học đã cho biết nguồn gốc của thành Thăng Long bắt đầu bởi Giao Châu Đô hộ phủ do Thứ sử nhà Tùy là Khâu Hòa xây dựng vào thế kỷ thứ 7, trong đó tòa thành đầu tiên làm trị sở của viên quan đô hộ này có tên gọi là “Tử thành” – tức vòng trong cùng của kiểu kiến trúc ba vòng thành vẫn thường thấy ở các thành cổ Trung Hoa. Người ta cho rằng vị trí của Tử thành thời đó được dựng trên gò Nùng, khu vực điện Kính Thiên còn lại ngày nay. Từ cái tòa thành đầu tiên này, Cao Biền đã tiếp tục củng cố các vòng thành bên ngoài để làm nên thành Đại La trong thế kỷ thứ 8[34].
Người Hoa – Hán và các sắc tộc Trung Hoa khác đến Việt Nam từ rất sớm, bằng nhiều con đường khác nhau, và phần lớn những người trong làn sóng di cư đầu tiên từ phương Bắc tới với mục đích định cư đều đã địa phương hóa để trở thành người Việt. Các làng cũ không có tên Nôm và thường bắt đầu bằng một tên dòng họ nào đó phổ biến ở khu vực đồng bằng Bắc Bộ thường có yếu tố của người nhập cư phương Bắc mặc dù đến nay gốc gác của họ đã không còn dấu tích[35]. Từ khi đất nước có chủ quyền và định đô ở Thăng Long, làn sóng di cư của người Hoa vào khu vực nội đô vẫn tiếp tục, nhưng lúc này, vị thế của họ là dân nhập cư. Sử cũ đã chép về việc vào năm 1274, nhiều người Hoa di cư đến Việt Nam trên 30 con thuyền đã có đơn xin được ngụ cư ở Thăng Long. Trong thế kỷ 15, tác phẩm nổi tiếng Dư Địa chí của Nguyễn Trãi cũng có ghi chép về một phường của người Hoa ở Thăng Long có tên gọi là Đường Nhân. Chắc hẳn đó là những hạt nhân đầu tiên làm dấu gạch nối cho sự cư trú liên tục của các phố người Hoa sau này ở Hà Nội. Tài liệu của UBND Hà Nội mô tả tình hình nhập cư của người Hoa trong các thế kỷ 16-17 như sau:

“Khoảng thế kỷ XVI, người Hoa chỉ được phép cư ngụ ở Phố Hiến (Hưng Yên). Sang thế kỷ XVII họ được lên Thăng Long. Hẳn là đông đúc nên có lúc họ xin chính quyền thành Thăng Long cho họ đứng ra tu bổ xây kè dọc bờ sông Hồng từ bến Hàng Mắm đến tận bến Tây Long (tức chỗ Nhà Hát Lớn ngày nay). Chả là thuở đó sông Hồng chảy sát chân đê, tức chân đường Trần Nhật Duật, Trần Quang Khải bây giờ. Cho mãi đến năm 1945, ở Hà Nội, vẫn còn hàng chục cửa hàng của các chi phái họ Phan từ Quảng Đông sang mở cửa hiệu ở Hàng Ngang khoảng trăm năm trước, đã Việt hoá hoàn toàn. Đó là các hiệu Phan Hưng Thành, Phan Hoà Thành, Phan Đức Thành, Phan Thái Thành… và những thế hệ người Hoa ở phố Phúc Kiến (nay là Lãn Ông), Hàng Buồm, Hàng Bồ…[36].

Mặc dù thời kỳ đô hộ trực tiếp của nhà Hán ở Việt Nam đã từ lâu chấm dứt, nhưng dòng người di cư từ các địa phương thuộc vùng Quảng Đông như Triều Châu, Phúc Kiến vẫn tiếp tục đổ về phía Nam. Các nhà nghiên cứu cho rằng phần lớn người Hoa đã Việt hóa; cũng giống như người Hoa nhập cư ở các nước khác trong vùng, họ đã địa phương hóa để thích nghi với hoàn cảnh. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là người Hoa nhập cư không để lại dấu ấn văn hóa của mình trong đời sống của địa phương sở tại. Các nhà ngôn ngữ học chỉ ra rằng hơn 60% từ vựng trong tiếng Việt có nguồn gốc từ tiếng Hán, hay còn gọi là từ Hán – Việt[37], và chắc chắn trong tiếng Hà Nội với tư cách là một phương ngữ của tiếng Việt đã chịu nhiều ảnh hưởng của các thành tố Hán ngữ nhưng vẫn chưa thấy nhà ngôn ngữ học nào dụng tâm nghiên cứu. Đến nay, các khái niệm học thuật và tôn giáo mà ta đang sử dụng đều phải vay mượn từ tiếng Hán. Về phương diện tôn giáo, sự hiện diện của đạo Lão, đạo Nho và đạo Phật đã trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống tâm linh của người Hà Nội. Về phương diện ẩm thực, các món ăn dân dã như lạc rang húng lìu, vịt quay hay món xì-dầu cũng thấy hiện diện phổ biến trong bữa ăn hàng ngày của người Hà Nội. Về phương diện y thuật, ngoài y lý cổ truyền của người Hoa được tin dùng, Hà Nội trở thành một trung tâm bán buôn và phân phối mặt hàng này trên khắp châu thổ sông Hồng. Các hiệu thuốc Bắc và khu phố bán các mặt hàng này ở Hà Nội mà ngày nay vẫn đang hiện diện trên các phố Lãn Ông, Thuốc Bắc (thời Pháp gọi là phố Phúc Kiến, có lẽ bắt nguồn từ người nhập cư có gốc từ Phúc Kiến, Trung Quốc) hay các phố bán đồ ăn Quảng Đông (vì thế mà thời Pháp có tên gọi Canton) như Hàng Buồm, Tạ Hiền, Hàng Ngang, v.v. Về phương diện kiến trúc, có thể nhận thấy các đền miếu và hội quán của người Hoa đã mang lại một sắc thái rất riêng cho Hà Nội. Nhưng ngay cả cấu trúc các phố thị chật chội với kiểu nhà dài hình ống san sát có chức năng vừa làm nhà ở, vừa tận dụng mặt tiền chật hẹp làm cửa hàng buôn bán được cho là đặc trưng riêng “thể hiện sự khéo léo, tinh tế của người Hà Nội xưa”[38] thực ra cũng thấy phổ biến ở tất cả các phố Tầu (China Town) trong khu vực, từ Hội An, Chợ Lớn (Việt Nam) đến các phố Tầu ở Bangkok (Thái Lan), Yojakarta (Indonesia), Singapore, v.v. Về phương diện văn hóa thượng tầng, các nhà nghiên cứu có thể tìm thấy trong lối giáo dục khoa cử, các hình thức tổ chức nhà nước, hệ thống đạo đức và pháp luật của Việt Nam những yếu tố vay mượn hoặc chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa mà họ nhìn nhận như là “mô hình Trung Hoa” (Chinese Model) trong văn hóa chính trị ở nước Việt Nam trước thời thực dân[39]. Đó cũng là lý do tại sao các nhà nghiên cứu phải đi tìm bản sắc Việt ở trong mạch nguồn văn hóa dân gian nơi làng quê và gọi đó là “linh hồn” của văn hóa dân tộc[40].

Nhưng Hà Nội không chỉ có dấu ấn văn hóa của người Hoa. Một phần không thể thiếu của văn hóa Hà Nội là dấu ấn Âu Tây mà người Pháp đã mang đến. Chính những dấu ấn này đã làm nên một thành phố phương Đông mang đậm sắc thái kiểu châu Âu khiến nhiều du khách ngỡ ngàng như đang khám phá một “Hà Nội– Paris của Việt Nam”[41].

Thực ra, ngay từ nhiều thế kỷ trước, các nhà buôn đến từ châu Âu như Hà Lan, Tây Ban Nha, Anh, Pháp, Bồ Đào Nha đã hiện diện ở đô thị Thăng Long. Người Pháp và Hà Lan thậm chí đã mở các thương điếm của họ ở cả hai phố thị Thăng Long và Phố Hiến để làm ăn buôn bán ngay từ thời Lê – Trịnh. Tuy nhiên, chỉ từ khi Hà Nội trở thành nhượng địa của Pháp sau Hiệp ước Philastre năm 1874 thì ý tưởng về một thành phố theo mô hình châu Âu mới được tạo ra. Có thể nói, trước khi người Pháp đến Hà Nội, kiểu nhà một tầng lợp tranh hoặc ngói có chiều ngang hẹp nhưng sâu và có khoảng sân ở giữa nằm san sát chen nhau trên các con phố hẹp chỉ độ 3 mét là hình ảnh điển hình của phố thị Hà Nội[42]. Người Pháp đã mang đến Hà Nội một bộ mặt khác trong khi không làm mất đi cái dáng vẻ xưa cũ tấp nập của 36 phố phường. Đó là các con phố có đường trải nhựa rộng cả chục mét, với nhà hàng, quán bar và café, dinh thự, công sở, khách sạn, các công trình công cộng như nhà thờ, công viên, nhà hát, và cả những cơ sở công nghiệp như cơ khí và in ấn, v.v. Và lần đầu tiên vào năm 1885, một loại xe khách do ngựa kéo với các trạm dừng đón trả khách đã được tạo ra ở Hà Nội[43]. Hàng loạt các phố Tây lần lượt ra đời sau phố Tràng Tiền và hàng Khay là các phố Rue Jules Ferry (Hàng Trống) nối với Rue Gia Long (Bà Triệu), Rue Francis Garnier (Đinh Tiên Hoàng) nối với Rue des Cartes (Hàng Bài), Rue Henri Rivière (Ngô Quyền) nối với Rue Jacquin (Ngô Thì Nhậm). Những phố này hợp với các đại lộ Boulevard Rollandes (Hai Bà Trưng), Boulevard Careau (Lý Thường Kiệt) và Boulevard Gambetta (Trần Hưng Đạo) tạo ra cấu trúc thành phố theo kiểu ô bàn cờ nối các con phố và đại lộ với nhau, tạo nên bộ phận cốt lõi của khu trung tâm hành chính thời Pháp thuộc. Sau khi cầu Long Biên và nhà ga Hàng Cỏ đi vào hoạt động hồi đầu thế kỷ 20, Hà Nội đã trở nên lung linh như một hòn ngọc ở Viễn Đông.

Tuy nhiên, dấu ấn văn hóa Âu Tây ở Hà Nội không chỉ là những dãy phố. Bằng việc tạo ra một hệ thống giáo dục kiểu mới nhằm đào tạo những công chức và trí thức kiểu châu Âu phục vụ nhà nước thực dân, dù người Pháp không muốn, cũng đã thổi vào đời sống của người Hà Nội một luồng gió mới, xua đi cái ngột ngạt của hệ thống giáo dục kiểu Tầu dựa trên các tôn ty trật tự chuyên chế phương Đông vốn đã ngự trị nhiều thế kỷ ở chốn kinh kỳ. Hệ thống trường học từ trung học đến cao đẳng và đại học chủ yếu tập trung ở Hà Nội đã thu hút con em các gia đình thuộc tầng lớp trên ở mọi miền đất nước tụ hội về thành phố học tập và làm việc, và hệ quả là nó đã tạo ra một lớp trí thức tinh hoa cho dân tộc. Tư tưởng bình quyền châu Âu lần đầu tiên được truyền vào Việt Nam, tạo điều kiện cho phụ nữ rời khỏi khuôn khổ chật hẹp của gia đình, đến trường học và tham gia vào hoạt động xã hội. Những giá trị nhân bản về quyền con người, quan niệm về tự do bác ái, về trách nhiệm công dân, về quốc gia dân tộc, v.v., thông qua tầng lớp trí thức Tây học mà truyền vào xã hội thuộc địa và từ đó nâng cao nhận thức của người dân về trách nhiệm của họ đối với đất nước. Chính tầng lớp tinh hoa trí thức Tây học này đã góp phần đưa những luồng tư tưởng mới của châu Âu mà họ tiếp thu được qua sách vở vào trong xã hội, làm nhen nhóm lên xu hướng cách mạng nhằm thay đổi xã hội. Cho đến nay tác động xã hội của hệ thống giáo dục thực dân nói riêng, thể chế thực dân nói chung ở thuộc địa thường được nhìn nhận bằng con mắt ác cảm và do đó, không nhận ra những tác động tích cực của nó đối với xã hội thuộc địa. Khi tổ chức một xã hội thuộc địa và đào tạo đội ngũ tinh tú phục vụ chế độ, những nhà cai trị thực dân chắc đã không mong đợi những tác động như vậy vì họ muốn tạo ra những con người trung thành với mẫu quốc hơn là chống lại chế độ thực dân. Đến nay, “hào khí Thăng Long” của “Hà Thành hoa lệ” do nhóm trí thức này dấy lên từ hồi nửa đầu thế kỷ 20 như vẫn còn vang vọng khích lệ tinh thần dân tộc. Quan niệm đề cao lối sống hào hoa thanh lịch của người Hà Nội mà ngày nay được nhìn nhận như bản sắc văn hóa của thành phố có lẽ cũng đã được sản sinh ra trong giai đoạn đau thương nhưng hào hùng này. Vì vậy, hầu hết những người giờ đây bày tỏ nuối tiếc một thời Hà Nội thanh lịch đều là những người đã lớn lên, đã được đắm mình trong nền học vấn dưới thời thực dân hơn là những người ra đời sau ngày tiếp quản thủ đô.

Bên cạnh những yếu tố văn hóa Đông – Tây vẫn còn hiển hiện cả trong đời sống vật chất và tinh thần của Hà Nội, chúng ta cũng thấy sự tham góp của nhiều nhóm sắc tộc thiểu số bản xứ khác vào trong kho tàng văn hóa đa dạng và giầu có của thành phố. Không phải đợi cho đến khi các nhà nước phong kiến Việt Nam chinh phạt phương Nam, đem về kinh thành những chiến lợi phẩm từ vương quốc Champa như tù binh, thợ thủ công, vũ nữ, thương nhân và gia đình của họ, Hà Nội mới chứng kiến sự hiện diện của văn hóa Nam Đảo[44]. Khảo sát của các nhà ngôn ngữ học cho thấy có những thành tố ngôn ngữ cổ gốc Mã Lai, một bộ phận còn sót lại trong tiếng nói của nhóm cư dân cổ đại, tổ tiên trực tiếp của người Việt hiện đại vẫn đang còn sống trong kho từ vựng của người vùng Hà Nội, đặc biệt là những địa danh cổ như sông Cà Lồ, Cán Khê, Càn Hải, v.v. dù cho thời gian đã phủ lên tầng ngôn ngữ nguyên sơ này một lớp Hán Việt rất dầy[45].

Khảo sát các làng nông nghiệp tồn tại trong khu vực hoàng thành Thăng Long bị hoang phế sau thế kỷ 18 cũng cho thấy gốc tích của nhiều dòng họ ở đây vốn là người Mường và người Thái ở vùng Thanh – Nghệ được tuyển dụng làm việc phục vụ trong hoàng thành rồi sau đó định cư ở lại các trại như Hữu Tiệp, Ngọc Hà, Vạn Phúc, Liễu Giai và Giảng Võ[46].

Ngày nay, với việc sáp nhập Hà Tây vào địa giới Hà Nội, các sắc tộc thiểu số như Mường, Dao đã chính thức trở thành một bộ phận cư dân gốc bản địa của thủ đô với khoảng 1% tổng số dân toàn thành phố.

Tóm lại, nhìn nhận dấu ấn văn hóa Hoa, Pháp và các tộc người khác như những bộ phận hợp thành trong cấu trúc văn hóa của Hà Nội không làm giảm đi giá trị văn hóa dân tộc mà ngược lại, góp phần hiểu sâu hơn các giá trị nhân bản, khả năng dung hợp, tính chất hài hòa và đa dạng của một truyền thống văn hóa lâu đời mà thành phố thủ đô là một đại diện.

5. Không gian đô thị và lối sống

Từ khảo sát không gian cư trú của cư dân khu vực đô thị Hà Nội hiện nay, ta có thể nhận ra tính chất khác biệt tương đối trong phân bố dân cư theo lãnh thổ. Những không gian cư trú này được hình thành một cách tự nhiên và dù chỉ có tính tương đối, nó có thể giúp hiểu được lịch sử cư trú, vị thế xã hội, mức sống và lối sống của các nhóm dân cư khác nhau. Hơn thế, nó là một chỉ báo cho thấy bản chất của văn hóa Hà Nội là đa nguyên, đa dạng và không đồng nhất về lối sống như vẫn thường được khái quát trong các nghiên cứu đã có về văn hóa Hà Nội. Có thể phân chia không gian sinh tồn của các nhóm cư dân trong khu vực đô thị Hà Nội thành 5 nhóm sau đây: 1) Khu phố cổ; 2) Khu phố Tây; 3) Các khu đô thị mới; 4) Các làng nông nghiệp ven đô đang đô thị hóa; 5) Các khu ổ chuột và xóm liều.

Khu phố cổ, hay còn gọi là khu 36 phố phường, được xem là trung tâm lịch sử của đô thị Hà Nội. Hầu hết cư dân sinh sống trong khu vực này đều đã có mặt ở đây từ trước hoặc trong thời kỳ thuộc Pháp. Không có nhiều hộ gia đình mới nhập cư đến sinh sống trong khu vực này do đặc điểm cư dân, nghề nghiệp, gốc gác lịch sử và nhất là không gian chật chội của nó. Đặc điểm kiến trúc điển hình của khu phố cổ là các ngôi nhà hình ống hẹp về chiều ngang và có chiều sâu. Nhà thường được cấu trúc thành ba phần liên hoàn: Phía mặt tiền thường được sử dụng làm nơi buôn bán hoặc làm xưởng sản xuất thủ công, phía trong cùng là khu sinh hoạt của gia đình và ở giữa thường có một khoảng sân để lộ thiên, còn gọi là giếng trời, để lấy ánh sáng và không khí thoáng đãng. Giữa các nhà liền kề thường có những lối đi nhỏ hẹp và tối tăm có thể liên thông với các phố khác. Trước đó, phần lớn các hộ sống trong các phố này dùng chung nhà vệ sinh công cộng ở phía sau. Gần đây, hầu hết các gia đình đã cải tạo lại và đưa gian vệ sinh vào phía trong ngôi nhà mặc dù một bộ phận vẫn phải dùng chung khu phụ do không có không gian riêng. Cư dân trong các ngôi nhà chật hẹp này chủ yếu sống nhờ vào hoạt động buôn bán hoặc làm nghề thủ công ngay trên các con phố mà họ sinh sống. Tuy là bộ phận thị dân có lịch sử cư trú lâu đời của Hà Nội nhưng các ngôi nhà của họ phần lớn đều đã xuống cấp, được cơi nới và cải tạo lại một cách tùy tiện không theo quy hoạch. Điều kiện sống của họ khá khó khăn. Nhiều hộ gia đình có từ ba đến bốn người chỉ sống trong một không gian nhỏ hẹp chừng 10m2 và không có nhà vệ sinh riêng. Từ thuở khai sinh cho đến ngày nay, trải qua nhiều thăng trầm, biến đổi và tu sửa, khu phố này vẫn chật hẹp và đông đúc. Các phố cũng đồng thời có chức năng như những cái chợ với các gian hàng, chen lẫn đền miếu và chùa chiền của các cộng đồng cư dân người Việt và người Hoa.
Biểu 1. Dân số, diện tích và mật độ dân số các quận nội thành Hà Nội, 2009
Nguồn: http://hanoi.vietnamplus.vn/
Khu phố cũ hay còn gọi là phố Tây chủ yếu được người Pháp xây dựng từ cuối thế kỷ 19, nằm ở khoảng giữa hồ Tây và hồ Hoàn Kiếm. Nó được thiết kế thành hai khu vực, bao gồm khu hành chính đầu não nằm trên nền hoàng thành cũ của kinh đô Thăng Long xưa mà trung tâm là khu vực Ba Đình, và các khu phố kiểu ô bàn cờ với các tòa biệt thự, công sở, nhà hàng, bệnh viện, công trình công cộng, và cả doanh trại quân đội. Khu vực phố Tây đã để lại cho Hà Nội một di sản kiến trúc đặc biệt hiếm có. Từ ngày tiếp quản thủ đô, chính quyền cách mạng về cơ bản vẫn sử dụng các khu vực theo như công năng mà nó được tạo ra. Khu đầu não thời thực dân được sử dụng làm công sở của Đảng cầm quyền và Chính phủ. Các khu biệt thự được dùng cho các đoàn ngoại giao, công sở nhà nước hay tư dinh của các vị lãnh đạo, và các khu phố thương mại vẫn tiếp tục đảm nhận vai trò kinh doanh buôn bán dưới các hình thức khác nhau. Đáng lưu ý là nhiều biệt thự đẹp đã bị biến thành chung cư và bị sửa chữa, cơi nới làm biến dạng phong cách nguyên sơ của chúng trong khi nhiều nhà cao tầng được phép xây dựng ở khu vực này, khiến cho khu phố Tây vốn được thiết kế và hoàn thiện đến từng chi tiết, nay trở nên xô bồ hỗn loạn. Thống kê của Sở Xây dựng Hà Nội cho biết khoảng 80% trong số hơn 900 ngôi biệt thự còn lại đến nay đã bị lấn chiếm hoặc phá vỡ nguyên trạng[47]. Do yếu kém trong quản lý, lãnh đạo Hà Nội gần đây đã ban hành chủ trương bán khoảng 600 trong số hơn 900 biệt thự cũ của khu phố Tây cho những người đang ở thuê với lập luận rằng tư nhân sẽ quản lý di sản tốt hơn[48]. Đây thực ra chỉ là một cách hợp thức hóa quyền sở hữu nhà biệt thự cho các công chức nhà nước đang ở trong các ngôi biệt thự này dưới hình thức nhà cho thuê. Động thái này được cho là sẽ làm tăng nguy cơ mất đi một di sản đặc sắc của Hà Nội thời thuộc địa.

Cũng như dưới thời thực dân, cư dân chính của khu phố cũ là những công chức có thế lực trong bộ máy nhà nước các cấp, những doanh nhân có máu mặt và các hộ gia đình kinh doanh buôn bán vừa và nhỏ. Cũng có một bộ phận dân cư là những viên chức, thị dân nghèo và tầng lớp trung lưu của thời bao cấp xen lẫn trong các xóm ngõ lắt léo ở sâu bên trong. Cùng với 36 phố phường, khu phố Tây ít nhiều còn giữ lại dấu vết văn hóa vật chất của một thời quá khứ nhưng cái ruột bên trong đã và đang thay đổi, làm cho lối sống ở khu vực này mất đi dáng vẻ kiêu sa quyến rũ từng có, đến nỗi nhiều người con của Hà Nội lớn lên trước chiến tranh phá hoại của Mỹ đã từng được nhìn ngắm các tòa nhà nguy nga trong khu phố Tây nay ngán ngẩm mà nặng lòng hoài cổ.

Các khu đô thị mới, còn được biết đến dưới tên gọi khu tập thể (hình thành từ sau những năm 1960) và gần đây là khu đô thị (xuất hiện sau thời kỳ đổi mới) đã góp vào diện mạo chung của thành phố những sắc thái riêng, ghi lại dấu ấn phát triển của thành phố qua từng chặng đường lịch sử. Các khu chung cư tập thể là sản phẩm của nền kinh tế bao cấp ở Hà Nội những năm 1960-80 và hình hài của nó phảng phất nét kiến trúc thô thiển của các khu chung cư kiểu Nga so-viet du nhập vào Việt Nam. Trong khoảng thời gian này, hàng loạt khu nhà tập thể cao tầng xây dựng theo hình thức lắp ghép đã mọc lên ở các làng ven đô như Kim Liên, Trung Tự, Giảng Võ, Thành Công, Thanh Xuân Bắc… Cư dân của những ngôi nhà tập thể có diện tích nhỏ hẹp trung bình từ 20 đến 40m2 này chủ yếu là công nhân viên chức được nhà nước bao cấp về nhà ở. Do thiết kế của khu chung cư không thích hợp với lối sống gia đình, nhiều hộ đã tự ý cơi nới ban công, cửa sổ lấy thêm diện tích sinh hoạt, làm xuất hiện các “chuồng cọp” treo không chỉ mất mỹ quan đô thị mà còn làm cho các khu chung cư xuống cấp nhanh chóng.

Từ khi thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế, khu vực đô thị của Hà Nội đã được mở mang rất nhanh chóng. Người ta thấy những con đường mới và những khu đô thị mới được dựng lên ở khu Tây và Nam cầu Thăng Long, Hồ Tây, Bắc Linh Đàm, Trung Hòa, Nhân Chính, Văn Quán, Mỹ Đình, Định Công, v.v.. Hàng loạt khách sạn, nhà hàng, công sở và các tòa nhà chung cư vươn lên sừng sững có kiểu dáng kiến trúc na ná nhau, vô hồn và thiếu thẩm mỹ. Trong khi đó, nông dân ở các làng cổ truyền vùng ven đô phải di chuyển nhường chỗ cho khu chung cư bỗng chốc không còn ruộng đất làm kế sinh nhai và trở thành những thị dân bất đắc dĩ. Điều đáng nói là các dự án xây dựng khu đô thị mới thường không tạo được mạch sống tiếp nối hay gắn bó với những người nông dân đã sống trên những mảnh đất của họ từ đời này qua đời khác. Những người mới đến làm chủ các khu chung cư và biệt thự mới mọc lên hoàn toàn xa lạ và chẳng có mối liên hệ nào với lịch sử và các giá trị văn hóa của các làng mạc xưa mà giờ đây đã biến thành các khu đô thị mới. Dân cư của các khu đô thị này chủ yếu là những người nhập cư. Phần đông trong số họ là các công dân trẻ thuộc tầng lớp trung lưu mới phất lên sau khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường. Rất ít người nghèo có thể tồn tại được ở các khu đô thị mới do giá cả các căn hộ và biệt thự ở khu này thường vượt quá sức tưởng tượng của họ. Hơn nữa, nhiều khoản chi phí hàng tháng đảm bảo cho vận hành của khu chung cư đôi khi vượt quá cả thu nhập của một hộ gia đình công nhân viên chức nghèo. Một đặc điểm dễ nhận ra trong kiến trúc các khu đô thị mới là mật độ xây dựng quá dầy trong khi thiếu vắng các công trình công cộng như trường học, bệnh viện, công viên, vườn trẻ và nơi đỗ xe. Có thể thấy đây là một bước thụt lùi về kiến trúc so với khu phố Tây được xây dựng từ hồi đầu thế kỷ trước.

Các làng ven đô bị cưỡng bức chuyển sang đô thị là một mô hình khá phổ biến trong cơn lốc đô thị hóa ở Hà Nội những năm giao thời giữa hai thế kỷ. Bản chất của quá trình đô thị hóa này là việc bao gồm các làng vào trong khu vực đô thị do đất đai của các hộ nông dân đã bị nhà nước thu hồi cho công cuộc đô thị hóa và công nghiệp hóa. Hậu quả của tình trạng mất đất nông nghiệp đã biến người nông dân vốn quen sống trong các ngôi làng thanh bình với lối sống dựa trên quan hệ cộng đồng nay buộc phải làm quen với lối sống vun vén cá nhân, thành những lao động phi nông nghiệp hoặc thất nghiệp. Một số hộ cảm thấy đời sống khá hơn sau khi nhận được một khoản tiền đền bù đất nhưng nhanh chóng rơi vào trạng thái thất vọng sau đó do chưa được chuẩn bị để trở thành thị dân hay công nhân lao động có kỹ thuật. Đặc điểm của các làng biến ra phố chỉ trong một đêm này là lối sống cổ truyền theo kiểu liên kết dòng họ và láng giềng vẫn ít nhiều được duy trì trong số cư dân gốc, nhưng một bộ phận lớn dân nhập cư giờ đây đã có cơ hội xâm nhập mạnh hơn vào trong cộng đồng. Nhóm cư dân này tràn vào mua đất dựng nhà, thường chiếm lấy các vị trí dọc theo con đường làng quanh co chật hẹp nay trở thành những dãy phố mới. Vì không có mối liên hệ lịch sử nào với nhóm cư dân gốc, những cư dân mới gia nhập vào các làng–phố này mang đến những thói quen, tập tục và thế ứng xử của riêng họ, bất chấp các giá trị truyền thống của cộng đồng gốc, tạo nên những đứt gẫy và hẫng hụt trong lối sống của cả hai nhóm cũ và mới.

Khu ổ chuột và các xóm liều, xóm nhảy dù, xóm ma là một phần của đời sống đô thị ở nhiều nơi trên thế giới. Hà Nội cũng không là một ngoại lệ, và loại hình cư trú của nhóm cư dân này cũng không phải mới xuất hiện gần đây. Quá trình đô thị hóa dưới thời thực dân đã thu hút một lượng lớn lao động nghèo từ vùng nông thôn về thành phố. Họ thường tìm đến các làng ven đô, các khu vực bỏ hoang hay những dải đất bãi bồi ven sông Hồng để tìm nơi tá túc, tạo nên những “góc tối” trong các xóm lao động nghèo vùng ngoại ô. Nhiều tác phẩm của các nhà văn lớn đương thời như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Tam Lang, Nam Cao, v.v., đã phản ánh sinh động đời sống của những con người cần lao bị đẩy ra bên lề cuộc sống, tá túc trong các xóm lao động “bùn lầy nước đọng” này. Tuy nhiên, trong các tài liệu nghiên cứu về văn hóa Hà Nội, khu vực này thường bị lờ đi hoặc chưa nhận được sự quan tâm đúng mức.

Cùng với quá trình đô thị hoá nhanh ở Hà Nội những năm gần đây, người ta cũng thấy xuất hiện ngày càng nhiều các xóm liều đô thị như một hiện tượng song hành của sự bùng nổ dòng chảy lao động tự do từ nông thôn về thành phố kiếm việc làm. Các xóm này có thể được tìm thấy ở nhiều nơi trong thành phố, nổi bật là ở các xóm ven sông, gầm cầu, “bãi rác” bị bỏ hoang, và nhiều xóm ngoại ô khác thuộc các quận đang trong quá trình đô thị hóa nhanh. Có thể xem xóm liều như là một biểu hiện sinh động của tình trạng đói nghèo và độ tương phản trong mức sống ở đô thị đang tăng lên. Khi nói đến các khu ổ chuột và xóm liều, người ta thường hình dung nó như là một thế giới riêng của những kẻ bần cùng lấn chiếm đất công, của các tệ nạn xã hội và làm ăn phi pháp. Khảo sát của chúng tôi ở một số xóm liều trong thành phố cho thấy tuyệt đại bộ phận cư dân sống trong xóm liều là những người lao động tự do hiền lành di cư đến từ các vùng nông thôn nghèo khó. Họ là những người có vị thế dễ bị tổn thương nhất trong đời sống đô thị. Bên cạnh những lao động di cư, trong xóm liều còn có một bộ phận cư dân là những thị dân nghèo, những công nhân viên chức có thu nhập thấp. Ngoài ra, ở đây cũng luôn có bóng dáng của các nhóm xã hội ngầm sử dụng địa bàn này như một nơi lý tưởng để kinh doanh buôn bán ma tuý, nghiện hút, mại dâm và cờ bạc.

Xóm liều đô thị là hệ quả tất yếu của quá trình đô thị hoá, phân tầng xã hội và tình trạng gia tăng dòng di dân tự do đến đô thị. Những người di cư tự do sống trong các xóm liều luôn ở trong tình trạng “lưỡng nan” của thân phận. Một mặt họ tìm thấy ở đây một thế giới riêng mà thân phận nghèo hèn của họ có thể hoà tan vào trong cộng đồng cùng cảnh ngộ để được chia sẻ và an ủi. Họ dường như cảm thấy được “an toàn” và “bình đẳng” hơn trong cái thế giới riêng tồi tàn và đầy bất trắc ấy. Nhưng mặt khác, họ lại ở vào vị thế yếu đuối mong manh do bị “dán nhãn” bởi một cách nhìn méo mó đầy định kiến của các nhà quản lý, và không được thụ hưởng các dịch vụ an sinh xã hội tối thiểu cho người nghèo. Chính sách quản lý lỏng lẻo và tình trạng làm ngơ như đang được thực hành hiện nay chỉ làm trầm trọng thêm vấn đề đói nghèo và tệ nạn vốn đã nổi cộm trong đời sống đô thị Hà Nội. Dòng chảy của người lao động tự do về thủ đô tìm việc làm vẫn đang tiếp tục tăng lên, và các xóm liều mới sẽ lại mọc lên nếu nhà nước chưa có một chính sách toàn diện ở tầm vĩ mô đối với vấn đề di chuyển lao động nông thôn – đô thị[49].

6. Kết luận

Tại hội thảo “về bản sắc văn hóa Hà Nội trong văn học nghệ thuật thế kỷ 20” tổ chức tại Đại học Mỹ thuật ngày 23 tháng 9 năm 2010, nhà nghiên cứu văn hóa Hoàng Ngọc Hiến đã nêu ra sự cần thiết phải làm rõ khái niệm bản sắc văn hóa trước khi có thể nói về đặc tính của nó. Theo ông, khái niệm bản sắc thường khiến người ta nghĩ đến một thực thể ổn định và cố định. Nhưng bản sắc không phải là cái gì đó bất biến. Nó là một quá trình của tiếp biến văn hóa để hình thành nên bản sắc. Ông cho rằng “nó (bản sắc) đến từ nhiều nguồn, tức là nó đa nguyên”[50]. Tiếc rằng đề nghị của ông đã rơi tõm vào thinh không. Người ta cứ tiếp tục nói về bản sắc theo cảm xúc của mình mà không cần “khái niệm hóa” cái mà họ quan sát được. Tôi hy vọng bài viết này là cách để hưởng ứng lời kêu gọi không được đáp lại của ông.

Trong bài viết này tôi đã cố gắng chỉ ra rằng bản chất của văn hóa Hà Nội là đa dạng, đa chiều và đa nguyên.

Nói đa dạng vì khái niệm Hà Nội không phải để chỉ riêng khu vực đô thị. Hà Nội như một không gian địa – văn hóa luôn luôn bao gồm cả khu vực nông thôn và lối sống nông dân. Trong lịch sử, Hà Nội chưa bao giờ đứng riêng với tư cách là một thành phố độc lập như ta vẫn thấy ở các thành thị phương Tây. Là một thành phố đô thị hóa chưa triệt để, còn nhiều mối liên hệ chặt chẽ với khu vực nông thôn, quá trình đô thị hóa từ trước đến nay vẫn đang thiên về biện pháp hành chính có tính cưỡng bức hơn là quá trình phát triển tự thân nên trong đời sống văn hóa của Hà Nội, yếu tố nông dân và nông thôn luôn hiển hiện như một bộ phận hợp thành của cấu trúc văn hóa đô thị.

Hơn thế nữa, Hà Nội là một thành phố đa sắc tộc và đa chủng tộc. Người Việt, người Hoa, người Pháp và nhiều sắc tộc khác đã cùng nhau làm nên thành phố này, và vẫn đang tiếp tục làm việc cùng nhau trong không gian thành phố thời hiện đại. Dấu ấn văn hóa của họ không hề bị hòa tan hay biến mất mà ngược lại, vẫn đang hiện diện trong mọi phương diện vật chất, tinh thần và cả cõi tâm linh sâu thẳm của người Hà Nội.

Tính đa chiều của văn hóa Hà Nội thể hiện ở sự phân bố không gian cư trú với các nhóm xã hội khác nhau và lối sống khác nhau. Văn hóa Hà Nội luôn được bồi đắp và biến đổi do tính năng động dân số học của các lớp người di cư đến thành phố. Di dân nông thôn – đô thị là quy luật, nhưng cũng là sức sống của Hà Nội và văn hóa Hà Nội. Thành phố sẽ chỉ còn là một cơ thể đang ngủ yên nếu không có dòng di chuyển dân số này.

Hà Nội cũng là một thành phố của sự tương phản trong văn hóa và lối sống. Đó là sự khác biệt giữa lối sống nông dân và thị dân, giữa cái cũ và cái mới, giữa tính năng động và sự trì trệ, giữa cao sang và thấp hèn, giữa tinh hoa và bình dân, giữa quyền lực và bất lực. Vì vậy, bản chất của cấu trúc văn hóa Hà Nội là đa nguyên. Các yếu tố đa dạng, đa chiều và tương phản trong lối sống luôn hiển hiện trong đời sống hàng ngày của thành phố nhưng chúng không hòa tan vào nhau, không làm cho cái bản ngã của mỗi nhóm bị mất đi, ngược lại, chúng tạo nên những gam màu đa sắc diện, cùng tồn tại trong một không gian văn hóa chung của thành phố. Nhận xét này gợi lên ý tưởng rằng bảo tồn các giá trị văn hóa của thành phố không có nghĩa là bảo tồn những giá trị chung chung và trừu tượng mà chính là giữ gìn những yếu tố vật chất và tinh thần của từng bộ phận đã tham góp vào quá trình hình thành và phát triển diện mạo văn hóa chung của thủ đô. Sự mai một của các yếu tố này cũng có nghĩa sẽ làm mất đi một phần bản sắc văn hóa của thành phố. Việc khái quát bản sắc thành những đặc tính chung như thường được nói đến do đó sẽ không mang lại những ngụ ý cho các giải pháp mang tính thực tiễn.

Cuối cùng, tôi muốn nhấn mạnh rằng biến đổi là một hằng số của văn hóa. Không có một nền văn hóa tĩnh tại xuyên thời gian với những giá trị vĩnh hằng và phổ quát như một vài công trình nghiên cứu gần đây cổ súy[51]. Tương tự như vậy, không có một bản sắc Hà Nội với tư cách là một thực thể văn hóa xác định, bền vững và bất biến. Việc phân tích các nhóm xã hội trong thành phố với tư cách là những chủ thể văn hóa của Hà Nội cho thấy các bộ phận này có lịch sử, lối sống và bản ngã riêng. Các yếu tố này gặp gỡ, ảnh hưởng và tác động lẫn nhau thông qua chất xúc tác của các hoạt động kinh tế, xã hội và sự điều khiển của các thể chế chính trị nhưng nó không triệt tiêu lẫn nhau. Khái niệm bản sắc văn hóa của một thành phố hay một quốc gia – dân tộc, thực ra chỉ là một cấu trúc có tính nhân tạo (artificial construction), tùy thuộc vào nhận thức chủ quan của nhà nghiên cứu và tác động của bối cảnh chính trị xã hội cụ thể. Bản sắc văn hóa do đó không phải là một thực thể tồn tại khách quan mà nó được tạo nên thông qua tư duy chủ quan của mỗi cá nhân hay cộng đồng. Tuy nhiên bản sắc văn hóa lại là một khái niệm chứa đựng nhiều yếu tố đạo đức xã hội và cảm xúc. Vì vậy bản sắc có thể trở thành nguồn cảm hứng vô tận cho các sáng tác văn học, nghệ thuật và chính trị. Bản sắc cũng có thể đoàn kết hay chia rẽ con người khi nó được sử dụng vào các mục đích khác nhau. Hà Nội trong tương lai đang vươn đến vị thế một thành phố toàn cầu. Bản sắc văn hóa như một cấu trúc tưởng tượng có thể trở thành một động lực lớn lao cho phát triển của thành phố tương lai nhưng bản sắc ấy cần được hướng đến mục tiêu hài hòa và cuộc sống tốt đẹp cho tất cả người dân thành phố thay vì chia rẽ và phân biệt.

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Hội thảo về bản sắc văn hoá Hà Nội trong văn học – nghệ thuật thế kỷ XX http://www.cpv.org.vn/cpv, ngày 24/09/2010.
[2] “Cultural diffusionism” hay “theory of centre and periphery” là một lý thuyết được biết đến từ lâu trong nhân loại học văn hóa phương Tây. Hầu hết các nghiên cứu về văn hóa Thăng Long – Hà Nội của các nhà nghiên cứu Việt Nam, dù có hay không đả động gì đến luận thuyết này thì vẫn chủ yếu xoay quanh hai khái niệm “hội tụ” và “lan tỏa” văn hóa, lấy đó làm điểm xuất phát cho các phân tích khoa học. Xin đọc thêm: Ngô Đức Thịnh, Lý thuyết “trung tâm – ngoại vitrong nghiên cứu không gian văn hóa, Tạp chí Văn hóa Dân gian, 2007; và Ngô Đức Thịnh, Bốn luận điểm phương pháp luận trong nghiên cứu Thăng Long – Hà Nội. Trong Văn hóa, văn hóa tộc người, văn hóa Việt Nam, Nxb. KHXH, Hà Nội, 2006.
[3] Hà Nội đã tiến hành một dự án đồ sộ có tên “Tủ sách Thăng Long ngàn năm văn hiến” nhằm thu thập toàn bộ tư liệu liên quan đến thành phố. Ngoài hàng ngàn sách/báo đã xuất bản, tủ sách dự kiến sẽ trình làng 100 đầu sách được biên soạn trên cơ sở nguồn tài liệu mới thu thập được. http://vietbao.vn, ngày 25/8/2010.
[4] Báo Hà Nội Mới (16/09/2010) cho biết trong Dự thảo Luật Thủ đô, 20 cơ chế chính sách đặc thù riêng cho Hà Nội đã được đề xuất, có nguy cơ biến thành phố này thành một “vương quốc” riêng.
[5] Hồ Phương Lan (Bt.), Thăng Long Hà Nội ngàn năm văn hiến, Nxb. Lao Động, Hà Nội, 2009, tr.47, cũng xem thêm các trang 66-68.
[6] Câu nói được truyền tụng phổ biến trong dân gian “thứ nhất Kinh kỳ, thứ nhì phố Hiến” thường được viện dẫn để chứng minh cho mức độ sầm uất của một đô thị thuộc vào hạng “Thượng Kinh” như Thăng Long, cơ sở hình thành lối sống hào hoa thanh lịch.
[7] Hoàng Hưng, Lối sống người Hà Nội. Đăng trên http://nguyentrongtao.org, cập nhật ngày 25/09/2010.
[8] Nguyễn Thừa Hỷ, Thăng Long – Hà Nội, hôm qua và hôm nay’. http://www.diendan.nguoihanoi.net.
[9] Những câu nói trong dân gian thường hay được viện dẫn như “thứ nhất Kinh kỳ, thứ nhì phố Hiến”, “giàu chốn quê không bằng ngồi lê Kẻ Chợ”, “ăn Bắc mặc Kinh”, “chẳng khôn cũng thể là người Thượng Kinh” v.v., thực ra chỉ là một cách phản ánh những ước vọng của người dân quê lam lũ muốn đổi đời hơn là để tụng ca một lối sống thanh lịch.
[10] Trần Văn Bính, Nhận diện con người Hà Nội qua lăng kính văn hóa Thăng Long – Hà Nội, Tạp chí Thông tin Công tác Tư tưởng, Lý luận, số ra tháng 10/2009.
[11] Ho Dinh Duan and Shibabaya Mamorou, Studies on Hanoi Urban Transition in the Late 20th Century based on GIS/RS, Southeast Asian Studies, Vol. 46, No.4, March 2009, p.532-546.
[12] Trần Quốc Vượng, Đô thị cổ Việt Nam. In trong cuốn Trong cõi, Nxb. Tram Hoa, California, USA, 1993.
[13] Công bố bản đồ Hà Nội 1831, Tuoi Tre, ngày 25/9/2010. Trong chương viết về “Đông Kinh Kẻ Chợ thời Mạc và Lê Mạt”, UBND Hà Nội trong Hà Nội theo năm tháng (Website thành phố, 10/2010) trích nguồn từ Nhà truyền giáo người Pháp Alexandre de Rhodes nói rằng dân số Thăng Long khi đó ước tính vào khoảng 1 triệu người, còn William Dampier, nhà phiêu lưu người Anh lại cho biết Hà Nội khi ấy có chừng 2 vạn nóc nhà. Những con số này không thực sự đáng tin. Căn cứ vào dấu tích còn lại của khu đô thị buôn bán sầm uất của Hà Nội trước thời thực dân thì quy mô một thành phố có diện tích chừng 1,2 km2 làm sao chứa được số dân đông như vậy. Phỏng đoán này có lẽ nói tới dân số của cả một vùng Thăng Long Hà Nội rộng lớn hơn là quy mô của một thành thị.
[14] Thành phố Hà Nội được Tổng thống Pháp Sadi Carnot chính thức ký sắc lệnh thành lập ngày 19/7/1888 và sau đó được sự công nhận của Triều đình Huế. http://hanoi.org.vn.
[15] Baron & La Salle, Dictionnaire des Communes administratif et militaire, France métropolitaine et France d’outre-mer, Paris: Charles-Lavauzelle & Cie, 1949.
[16] UBND Thành phố Hà Nội, Khái quát về Hà Nội, mục “Nguồn gốc dân cư”; http://www.hanoi.gov.vn.
[17] Tổng cục Thống kê, Dân số và mật độ dân số năm 2009 phân theo địa phương, Tổng cục Thống kê Việt Nam, truy cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
[18] Vì sao hoàng thành bị chôn vùi, Thanh Niên (27/9/2010).
[19] Ho Dinh Duan & S. Mamorou, Studies on Hanoi.…, đã dẫn, 2009.
[20] Nguyễn Thừa Hỷ, Thăng Long – Hà Nội…., đã dẫn.
[21] Trần Văn Giầu, Văn hóa Thăng Long thời đại Lý – Trần. In trong: Hội Ngôn ngữ học, Hà Nội – Những vấn đề ngôn ngữ văn hóa, Nxb. Thời đại, Hà Nội, 2010, tr.8-35.
[22] Lê Văn Lan, Hà Nội đâu phải nơi tá túc để kiếm chác, trả lời phỏng vấn trang Tuần Việt Nam, ngày 30/9/2010.
[23] Trả lời phỏng vấn Thể thao Văn hóa, in trong Nhà nghiên cứu Giang Quân với 30 đầu sách về Hà Nội, Thể thao Văn hóa, ngày 24/08/2010.
[24] Lê Phú Khải, Như thế nào là người Hà Nội, BBCVietnamese, 10/6/2010. Cũng xem Vương Trí Nhàn, Người Hà Nội thứ thiệt không nói thế, http://www.bbc.co.uk/vietnamese/culture/2010/09/
[25] Hoàng Hưng, Lối sống người Hà Nội, 2010, đã dẫn.
[26] Nguyễn Thừa Hỷ trong Thăng Long Hà Nội… (đã dẫn) cũng cho rằng đến thời thực dân, Hà Nội dần chuyển sang mô hình một thành phố thời cận đại, bắt đầu xuất hiện “một giai tầng mới với lối sống lịch lãm, phóng khoáng của một “Hà Thành hoa lệ”, đối lập với một “Hà Thành lầm than”.
[27] Hoàng Hành, Tiếng Hà Nội – sự hội tụ của bốn phương, tinh hoa của một nền văn hóa. In trong: Hội Ngôn ngữ học, Hà Nội những vấn đề ngôn ngữ văn hóa, Nxb. Thời Đại, Hà Nội, 2010, tr.139-151.
[28] Theo Masaya Shiraishi, trong công trình nghiên cứu State, Village and Vagabonds: Vietnamese Rural Society and the Phan Ba Vanh Rebellion, đăng trong Andrew Turton and Shigeharu Tanabe (eds.), History and Peasant Consciousness in Southeast Asia, Osaka: National Museum of Ethnography, 1984, 345-400, thì trong lịch sử Việt Nam, có một nhóm cư dân mà ông gọi là “vagabonds”. Về bản chất họ là những du dân nhưng không được thừa nhận và quản lý bởi nhà nước hay làng xã. Nhóm này có số lượng đông đảo và thường dễ được tập hợp, là nguy cơ gây bất ổn xã hội mà trường hợp khởi nghĩa Phan Bá Vành là một ví dụ điển hình.
[29] UBND Thành phố Hà Nội 2010, phần
“Nguồn gốc dân cư”
, trong Khái quát về Hà Nội… (đã dẫn).
[30] Cần tính kỹ việc hạn chế nhập cư vào Hà Nội, http://vnexpress.net/ Thứ Hai, 12/5/2010.
[31] Nguyễn Thừa Hỷ, Thăng long – Hà Nội…. (đã dẫn).
[32] Hoàng Văn Chức, Di dân tự do đến Hà Nội, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2004, tr.126-27.
[33] Người dân di cư gặp khó khăn về nơi ở và đăng ký hộ khẩu, Thanh Niên, ngày 23/12/2006.
[34] Nguyễn Việt, Nguyễn Mạnh, Ai trao “sổ đỏ” thành Đại La cho Lý Công Uẩn?, Hà Nội Mới, 6/1/2010.
[35] Khảo sát của Trần Trí Dõi ở 10 xã thuộc huyện Đông Anh cho thấy chỉ có 47% số làng vừa có tên Nôm vừa có tên Hán Việt. Trên cơ sở phân tích địa danh cổ, ông đi đến nhận xét: “về mặt địa danh, tính chất thuần Kinh Việt ở đây không phải là yếu tố trội”. Xem: Về một vài địa danh, tên riêng gốc Nam Đảo trong vùng Hà Nội xưa. In trong Hội Ngôn ngữ, Hà Nội, những vấn đề…, đã dẫn, tr.81-93.
[36] Tư liệu về người Hoa trong phần viết này lấy từ nguồn của UBND Hà Nội, phần “Nguồn gốc dân cư”…., 2010, đã dẫn.
[37] Lê Đình Tư cho biết có khoảng hơn 60% số từ của tiếng Việt là từ vay mượn từ tiếng Hán, gọi là từ gốc Hán hay từ Hán-Việt. Xem Ảnh hưởng của tiếng Hán đối với sự phát triển của từ vựng tiếng Việt, http://ngnnghc.wordpress.com/2010/12/05.
[38] Nhà ống phố cổ và tài hoa người Hà Nội, http://thanglong.cinet.vn ngày 26/8/2010.
[39] Woodside, Alexander, Vietnam and the Chinese Model: a Comparative Study of Vietnamese and Chinese Government in the First Half of the Nineteenth Century, Council on East Asian Studies, Harvard University, 1988, c1971.
[40] Trần Quốc Vượng, Văn hoá Việt Nam, tìm tòi và suy ngẫm, Nxb. Dân tộc, Hà Nội, 2000.
[41] Susan Spano, Vietnam: Remnants of Hanoi’s French colonial past, Los Angeles Times, May 23, 2008.
[42] Andre Masson, Hanoi pendant la periode heroique (1873-1888), Librairie Orientaliste Paul Gueuthner, Paris, 1929. [Hà Nội giai đoạn 1873-1888], Bản dịch tiếng Việt của Lưu Đình Tuân, lưu tại UBND Hải Phòng.
[43] A. Masson, Hanoi pendant…, đã dẫn.
[44] Nguồn của UBND Hà Nội (2010, đã dẫn) cho biết ngay từ 1039 một hoàng tử xứ Champa đã cùng gia tộc vượt biên đến Thăng Long thần phục nhà Lý. Trong các năm 1390 & 1448 cũng có những bộ phận hoàng tộc Champa mang theo gia quyến hàng phục Đại Việt và định cư ở lại Hà Nội tại các khu vực Vĩnh Tuy, Thịnh Quang, Xuân Tảo, Quán La, Trích Sài ngày nay. Một số kỹ thuật dệt lụa và lĩnh nổi tiếng ở vùng Thăng Long Hà Nội xưa được cho là do các thợ thủ công Chăm tài ba đưa tới.
[45] Trần Trí Dõi, Về một vài địa danh, tên riêng gốc Nam Đảo trong vùng Hà Nội xưa. In trong Hội Ngôn ngữ, Hà Nội, những vấn đề…, đã dẫn, tr.81-93.
[46] Nguyễn Văn Chính, Tìm hiểu thêm vấn đề Thập tam trại, Tạp chí Dân tộc học, số 2, 1985, tr.39-44; Nguyễn Văn Chính & Nguyễn Quang Ngọc, Khu Thập tam trại: Nguồn gốc dân cư, tín ngưỡng thành hoàng và đặc điểm kinh tế, Tạp chí Khoa học (Đại học tổng Hợp Hà Nội), số 1, 1986, tr.26-31.
[47] Đề nghị dừng phá dỡ biệt thự cũ tại Hà Nội, http://www.thongtindoingoai.vn ngày 7/5/2010.
[48] Hà Nội ban hành giá bán biệt thự "công", Vietnamnet, ngày 02/12/2009.
[49] Nguyễn Văn Chính, Free Migrants in Urban Space: The Case Study of a Slum in Hanoi. In: Vo Quang Trong & Amareswar Galla (eds.), Museum and Urban Anthropology, Vietnam Museum of Ethnology: Hanoi, 2009, p.242-262.
[50] Tường thuật của Nguyễn Xuân Diện tại http://nguyenxuandien.blogspot.com ngày 23.9.2010.
[51] Chẳng hạn, Trần Ngọc Thêm trong Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb. Tổng hợp, Tp. Hồ Chí Minh, 2006 đã mô tả văn hóa người Việt như một thực thể tĩnh tại và không biến đổi theo thời gian trong khi lờ đi tính đa dạng văn hóa trong một quốc gia đa sắc tộc.
PGS.TS. Nguyễn Văn Chính
Theo Website Khoa Lịch sử, khoalichsu.ussh.vnu.edu.vn, 05-01-2014.

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

_KLS_ TuyensinhSDH
facebook youtube
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây