GIÁO SƯ PHAN ĐẠI DOÃN VÀ LÀNG VIỆT NAM
(Lời giới thiệu sách Làng Việt Nam đa nguyên và chặt,
Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 2006)
“Nước là họp các làng mà thành. Từ làng đến nước, dạy dân nên tục, vương chính lấy làng làm trước”[1].
“Làng Việt Nam là cái chìa khoá để giải mã bí mật Việt Nam, thần kỳ Việt Nam”[2].
“Muốn tìm hiểu lịch sử hình thành dân tộc Việt Nam thì phải tìm hiểu cộng đồng làng xã và muốn xây dựng lại đất nước Việt Nam thì cũng phải bắt đầu từ việc xây dựng lại cộng đồng làng xã, vì không có làng xã Việt Nam thì không có quốc gia Việt Nam”[3].
Những quan niệm như thế đã xác nhận một thực tế hiển nhiên là làng Việt Nam từ xưa cho đến nay luôn giữ một vị trí hết sức quan trọng cho tất cả các nhà nước, vương triều hoạch định các chiến lược cai quản, xây dựng và phát triển đất nước. Thành công hay không thành công của các nhà nước, vương triều hay thể chế chính trị đó nhiều khi tuỳ thuộc vào sự hiểu biết và các chính sách đối với làng xã dưới quyền của mình.
Làng Việt Nam vì thế đã được sự quan tâm lâu dài trên hầu hết các lĩnh vực của các học giả trong nước và ngoài nước từ hàng trăm năm nay. Có khá nhiều công trình chuyên khảo về làng Việt Nam đã đạt đến độ chuẩn mực. Cũng có không ít những tác giả đã trở thành học giả xuất chúng của thế kỷ XX vì những cống hiến nổi bật trong nghiên cứu và đào tạo về làng xã Việt Nam. Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân Phan Đại Doãn là một trong những người như thế.
Ông sinh năm 1936 tại xã Diễn Quảng, huyện Diễn Châu tỉnh Nghệ An và sống trọn tuổi thơ ở làng quê nghèo khó “nhưng ý chí lại rất kiên cường mạnh mẽ luôn có ý thức cộng đồng và cởi mở, vững chắc mà nhân hậu, sẵn sàng hy sinh vì nghĩa cả” cho đến khi trở thành sinh viên ngành Sử, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội khoá đầu tiên. Ông tốt nghiệp năm 1959 và làm cán bộ giảng dạy khoa Lịch sử cho đến lúc nghỉ hưu (năm 2001). Dường như ông được sinh ra là để nghiên cứu và đào tạo về làng xã Việt Nam. Ông quanh năm, suốt đời chỉ cặm cụi với cái làng “đa nguyên và chặt” của mình, bởi vì theo ông, “làng quê là một điểm tựa trong cuộc sống của tất cả mọi người từ khi chào đời cho đến lúc tạ thế”.
Từ đầu những năm 1960 cho đến giữa những năm 1970, là thời kỳ ông chuyên tâm học hỏi, tự tìm, tự bơi, tự xác định phương hướng cho riêng mình giữa biển cả làng xã mênh mông của các vùng Xứ Đông, Xứ Đoài, Xứ Nam, Xứ Bắc, Xứ Thanh, Xứ Nghệ... Loạt bài viết đầu tiên của ông vào những năm 1977, 1978 cũng mới chỉ là những làng chiến đấu trong kháng chiến chống Minh, những làng gốm miền Bắc, những làng khai hoang ở Kim Sơn, Tiền Hải. Phải đến đầu những năm 1980, ông bắt đầu xuất hiện với tư cách là một chuyên gia đích thực về làng xã Việt Nam. Ông dồn tâm dồn sức, thể nghiệm, suy tư, tìm chọn cho mình một lối đi riêng, một phương pháp tiếp cận làng xã riêng, thật dân dã, chất phác, mà sâu sắc và độc đáo đến bất ngờ. Đây cũng là những năm tháng ông tự hoàn thiện các mô hình lý thuyết với những khái niệm và thuật ngữ khoa học, có thuật ngữ đã trở thành tài sản chung của giới nghiên cứu làng xã Việt Nam và thế giới, mà vẫn còn rất đậm phong cách Phan Đại Doãn. Từ cuối thập kỷ 80 và thập kỷ 90 của thế kỷ XX, ông viết hối hả, viết như đang chạy đua với thời gian để thể hiện hết mình. Ông “bao sân” từ những vấn đề về lý luận chung, những khái quát mô hình làng Việt cổ truyền cho đến các vấn đề cụ thể. Ông say mê với cơ cấu tổ chức, quản lý, kinh tế, văn hoá làng xã nhưng vẫn không bỏ qua chỉ một góc sân riêng. Lúc đầu ông định khoanh phạm vi nghiên cứu của mình ở làng Việt cổ truyền miền Bắc, rồi sau ông mở ra cả khu vực các dân tộc thiểu số ở miền núi, làng xã thời kỳ cận đại và hiện đại, làng xã ở các khu vực miền Trung, miền Nam. Ông trăn trở với những vấn đề hết sức bức xúc của nông thôn, nông nghiệp như lao động, việc làm, phân hoá giàu nghèo, công bằng xã hội, thiết chế dân chủ... Ông đặc biệt quan tâm đến thể chế kinh tế và xã hội nông thôn, cấp thôn bản, bộ máy quyền lực cấp xã, quản lý nông thôn vùng dân tộc thiểu số....
Từ những năm 1990, nhiều công trình của Giáo sư Phan Đại Doãn không chỉ có tính tổng kết khoa học cao mà còn có khả năng dẫn dắt nghiên cứu ứng dụng phục vụ cho nhu cầu của cuộc sống thực tiễn. Thời kỳ này cũng là thời kỳ ông được giao Chủ nhiệm nhiều đề tài khoa học cấp quốc gia như Thiết chế chính trị- xã hội nông thôn, Chính sách xã hội nông thôn, Quản lý nông thôn.... Ông hướng dẫn có đến 5-6 chục học trò làm luận văn, luận án Cử nhân, Thạc sĩ, Tiến sĩ (trong đó có 10 Thạc sĩ, 12 Tiến sĩ) về đề tài làng xã. Có những vị giáo sư lẫy lừng uy danh, bóng trùm thế kỷ, mà học trò điểm mặt không được mấy ai. Giáo sư Nhà giáo Nhân dân Phan Đại Doãn chắc hẳn đã mãn nguyện vì đứng bên cạnh ông, theo sát sau ông có lớp lớp các học trò. Ông không chỉ chia cho học trò đồng xu cuối cùng, đấu gạo cuối cùng trước khi đi điền dã nông thôn thời bao cấp, mà còn muốn truyền trao cho họ hết thẩy, cả đến những ý tưởng khoa học vừa chợt loé lên trên giường bệnh... Ông chính là người khai mào, thúc đẩy và góp phần tạo nên sự phát triển vượt bậc của môn học về làng xã Việt Nam ở trong nước và nhiều nước trên thế giới, tính từ đầu những năm 90 của thế kỷ XX trở lại đây.
Từ giữa năm 2000, sau những năm tháng gồng lên làm việc hết mình, đã có lúc tưởng như ông không còn khả năng tiếp tục công việc mình yêu được nữa. Nhưng may sao, chính tiếng gọi của làng xã đã trở thành nguồn lực diệu kỳ, vực ông dậy, hối thúc ông viết tiếp những trang vàng về làng xã Việt Nam. Đây là tổng kết khoa học được diễn giải như những lời tâm sự: “Phải nhìn một cách hệ thống trong tổng thể các quan hệ kinh tế - xã hội, từ cái kinh tế và phi kinh tế, cái quyền lực và siêu quyền lực, chuyển hoá lẫn nhau. Điều nổi bật là cái cộng đồng - một giá trị được tạo lập, duy trì và củng cố qua nhiều thế hệ. Đó là sức mạnh truyền thống vừa có tính quốc gia lại vừa có tính địa phương, được sản sinh từ làng xã.... Ngày nay, làng quê đang ở trong một giai đoạn thử thách quyết liệt, truyền thống và đổi mới, dân tộc và hiện đại, quốc gia và quốc tế. Mà làng vốn là cơ sở của các xã hội tiền tư bản chủ nghĩa, của phong kiến tất nhiên phải đổi mới, phải công nghiệp hóa, nhưng đồng thời phải giữ được bản sắc và truyền thống tốt đẹp của nền văn hoá dân tộc. Hiện đại hóa, đô thị hoá là quy luật tất yếu của phát triển, làng quê sẽ bị thu hẹp lại nhưng chính nó sẽ là điểm xuất phát của đô thị hoá. Muốn thế phải hiểu cụ thể bản chất của Làng Việt.... Tìm hiểu làng xã là tìm hiểu một mặt quan trọng, thậm chí là chủ yếu của con người và xã hội Việt Nam hiện nay”.
Đoạn trích dẫn trên nằm trong cuốn sách Làng Việt Nam: Một số vấn đề kinh tế - văn hoá - xã hội. Công trình này vừa mới được Chủ tịch nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng Giải thưởng Nhà nước về Khoa học Công nghệ. Đây là đỉnh cao vinh quang trong cuộc đời làm khoa học của nhà giáo, nhà khoa học. Cuối cùng thì không chỉ có đồng nghiệp và học trò mà cả đất nước, nhân dân và nông dân đều đã trân trọng ghi tên ông vào hàng những nhà khoa học có cống hiến lớn nhất cho sự nghiệp nghiên cứu nông thôn, nông nghiệp, nông dân và làng xã Việt Nam.
Năm nay[4] khoa Lịch sử Anh hùng, nơi Giáo sư Phan Đại Doãn gắn bó trọn vẹn sự nghiệp khoa học và đào tạo của mình, vừa tròn nửa thế kỷ xây dựng và trưởng thành. Giáo sư Phan Đại Doãn, một trong những sinh viên tiêu biểu của khoá học đầu tiên ấy cũng bắt đầu được đặt chân vào hàng những người “xưa nay hiếm”. Tuy không còn sức để đi điền dã, không còn đến được giảng đường, nhưng ông vẫn sục sôi nguyện vọng được viết tiếp, được bàn giao toàn bộ những gì ông đã dầy công tích luỹ. Chúng tôi, có những người là học trò, có những người là bạn bè đồng nghiệp trong nước và quốc tế, vì kính yêu và cảm phục ông, xin được đứng cạnh ông, góp cùng ông những câu chuyện nhỏ về làng quê để làm phong phú thêm cho bức chân dung làng Việt Nam đa nguyên và chặt của ông.
Làng Việt Nam đang ngày một đổi thay, nhưng những ý tưởng cao sâu, những tinh tuý được chắt lọc suốt một cuộc đời nghiên cứu và đào tạo về làng Việt Nam của Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân Phan Đại Doãn thì chắc hẳn không bao giờ thay đổi.
GS.TS Nguyễn Quang Ngọc
Viện trưởng
Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển
Chú thích:
[1] Vua Gia Long, vị vua mở đầu vương triều Nguyễn, 1804
[2] P.Mus - học giả, sĩ quan quân đội Pháp, đầu thế kỷ XX
[3] Vũ Đình Hoè, Bộ trưởng Bộ Tư pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
[4] Năm 2006
Theo Website Khoa Lịch sử, khoalichsu.ussh.vnu.edu.vn, 30-04-2010.
Ý kiến bạn đọc
Thứ tư - 13/11/2024 08:11
Thứ ba - 12/11/2024 16:11
Thứ ba - 12/11/2024 16:11
Thứ ba - 12/11/2024 15:11
Thứ hai - 11/11/2024 15:11