ST
|
Họ Và tên
|
Năm thi đỗ |
Làm quan tới |
Triều vua |
1 |
Đào Công Soạn |
1426 |
Nhập nội hành khiển |
Lê Nhân Tông |
2 |
Nguyễn Thiên Tích |
1431 |
Phó sứ viện Nội mật |
|
3 |
Nguyễn Trực |
1442 |
Trung thư lệnh Tri tam quán |
Lê Thánh Tông |
4 |
Nguyễn Như Đồ |
1442 |
Lần lượt làm thượng thư các bộ Lễ, Lại |
Lê Nhân Tông |
5 |
Lương Như Hộc |
1442 |
|
|
6 |
Nguyễn Cư Đạo |
1442 |
Thượng thư bộ Hộ |
Lê Thánh Tông |
7 |
Lương Thế Vinh |
1463 |
Thi thư viện Hàn lâm kiêm Sùng văn quán cục Tú lâm |
Lê Thánh Tông |
8 |
Quách Đình Bảo |
1463 |
Thượng thư bộ Hình |
Lê Thánh Tông |
9 |
Quách Hữu Nghiêm |
1463 |
Thượng thư bộ Lại |
Lê Hiến Tông |
10 |
Đỗ Nhuận |
1466 |
Thị độc Hàn lâm viện |
Lê Thánh Tông |
11 |
Đào Cử |
1466 |
Thượng thư bộ Hộ kiêm tri Sùng văn quán Tú lâm cục |
Lê Thánh Tông |
12 |
Thân Nhân Trung |
1469 |
Thượng thư bộ Lại kiêm Quốc tử giám tế tửu |
Lê Thánh Tông |
13 |
Đàm Văn Lễ |
1469 |
Thượng thư bộ Lễ kiêm chưởng Hàn Lâm viện sự |
Lê Thánh Tông |
14 |
Nguyễn Bảo |
1472 |
Tả Thị lang bộ Lễ |
Lê Hiến Tông |
15 |
Lê Tuấn Nga |
1472 |
Thượng thư ? |
Lê Thánh Tông |
16 |
Bùi Xương Trạch |
1478 |
Thượng thư bộ Binh kiêm đô Ngự sử tế tửu Quốc Tử giám |
Lê Hiến Tông |
17 |
Lương Đắc Bằng |
1499 |
Thượng thư bộ Lại |
Lê Tương Dực |
|
v.v. |
|
|
|
Đối diện hay so với lớp quan lại – thế hệ công thần từ trong kháng chiến đi ra, thế hệ quan lại Nho học bây giờ được coi là “trí thức” hơn. Khi tâm bia đầu tiên được dựng ở Quốc Tử Giám năm 1484, nhân danh Vua Lê Thánh Tông khắc dòng: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia”, yếu mạnh của nguyên khí này liên quan đến thịnh suy của triều đại, đất nước thì cũng có nghĩa là từ đó cứ Tiến sĩ Nho học chính thức được coi là “hiền tài”, là “nguyên khí” của quốc gia Đại Việt.
Vậy đội ngũ quan lại Nho học này, “nguyên khí”, “hiền tài” này đáp ứng được gì? Có mẫn cán, tài năng hơn so với đội ngũ công thần không? Có đáp ứng được nhu cầu cai trị, làm cho đất nước hưng thịnh và chế độ triều Lê sơ bền vững không?
Xưa nay khi nhìn về mối quan hệ giữa Nho giáo với tiến trình vận động của lịch sử đất nước nói chung, thời Lê sơ nói riêng thường vẫn có ý kiến trái ngược.
Loại ý kiến thứ nhất đề cao sự tác động tư tưởng của Nho giáo, giáo dục, thi cử Nho học với sự hưng thịnh của đất nước và coi thời Lê Thánh Tông là một điển hình.
Loại ý kiến thứ hai, ngược lại cho rằng Nho giáo là lạc hậu, lỗi thời, là xa rời thực tiễn, là đối ngược với truyền thống văn hóa Đại Việt từ trước mà thời từ Lê đến Nguyễn là minh chứng.
Xã hội Đại Việt thời Lí, Trần chưa hề dựa trên nền tảng tư tưởng Nho giáo sao vẫn tạo dựng nên văn hóa thăng long rực rỡ, nên hòa khí Đông Á?
Thời Lê sơ, giáo dục Nho học càng lan rộng hơn – bệ đỡ càng rộng càng sâu hơn sao triều Lê sơ lại sụp đổ nhanh sau Lê Thánh Tông đến vậy?
Đâu phải đến thời Nguyễn sau này Nho giáo mới là “chuyện xửa chuyện xưa”, chuyện của Trung Hoa, Nho giáo mới tỏ ra “lạc hậu”, “xa rời thực tế” mà ngay từ thời Đinh – Lê – Lí – Trần – Lê sơ… trước tác kinh điển Nho gia đã có gần một ngàn năm tuổi. “Lạc hậu” về thời điểm hình thành giáo lí vốn là thuộc tính của Nho giáo.
Càng không thể phủ nhận được trong 500 Tiến sĩ Nho học thời Lê Hồng Đức, có nhiều đấng bậc trí thức tiêu biểu cho trí tuệ, văn hóa Đại Việt như Lương Thế Vinh, Đỗ Nhuận, Thân Nhân Trung, Ngô Sĩ Liên, Thái Thuận, Hoàng Đức Lương…
Phải chăng việc tổ chức học tập Nho, cách thức thi cử Nho học từ thời Lê sơ khiến cho không có người tài, là cội nguồn của những tiêu cực trong đám sĩ tử, học phong?
Không thể quên rằng từ thời Lê Thái Tổ kì thi ở Bồ Đề năm 1426 đề thi nóng bỏng tính thời sự, gắn liền với đòi hỏi của đất nước lúc đó: “Hiểu dụ thành Đông Quan”. Tinh thần ấy vẫn được tiếp tục trong đời Lê Thánh Tông. Chẳng hạn đề thi đình năm 1463:
“Các bậc đế vương thánh thần thời thượng cổ thay trời trị đời, đạo đó rất là thuần phác. Cho đến đời sau, thuyết Phật, Lão dấy lên mới bắt đầu có chuyện bàn về Tam giáo mà lòng người với trị đạo thật không còn như xưa. Giáo lý Phật, dạo Lão hết thảy đều mê đời lừa dân, che lấp nhân nghĩa, cái hại của nó không thể kể xiết mà lòng người vẫn còn ham, rất tin… Đạo của thánh nhân, lớn thì tam cương ngũ thường, nhỏ thì tiết văn độ số đều thiết dụng cho cuộc sống thường ngày mà lòng ham thích của người ta lại chẳng bằng đạo Phật, đạo Lão sao lại như thế?
Điều cốt yếu để làm nên thịnh trị không ngoài chỗ làm sáng tỏ đạo Thánh, chính đáng nhân tâm, trừ dị đoan, bỏ lệ xấu, làm việc tốt. Làm được những điều ấy tất có thuật của nó,
Sĩ đại phu hãy xem hết hiểu biết của mình viết ra rõ ràng, trẫm sẽ đích thân xem xét”.
Hay đề thi năm 1475:
“Các bậc thánh nhân thời cổ, trị hóa thịnh vượng ắt khen Nghiên Thuấn, phò tá giỏi thường có Cao Quỳ. Giả sử trong 242 năm thời Xuân Thu chung một lòng với Đường Ngu, liệu có thể thống nhất được cục diện chia cắt đó chăng?
Trời không đủ cao, đất không đủ dầy, đó là sự vĩ đại của Nho.
Lễ Nghĩa nhờ đó mà hưng, kỉ cương nhờ đó mà dựng, đó là sức của Nho
Dựng chuẩn mực cho dân, mở nền thái bình muôn đời, đó là công của Nho.
Nhà Triệu Tống dùng Nho chuyên nhất so với Hán Đường thực hơn nhiều lắm nhưng binh lực trị hiệu không được thịnh bằng Hán Đường là tại làm sao? Hay là Nho thuật không bằng lưng ngựa?
Trẫm thừa đại thống đến nay đã 16 năm, những việc trị nước quan trọng cấp thiết Trẫm vẫn thường đắn đó, suy nghĩ cùng bàn với mọi người rồi thi hành vào chính sự.
Các ngươi chớ nên phù phiếm, hay hết sức bày bỏ, thiết tha mong trị, Trẫm sẽ đích thân lựa chọn”.[4]
Không thể nói là những đề thi, những vấn đề mà đích thân nhà vua đặt ra cho sĩ tử trong cuộc thi là phù phiếm, xa lạ với vấn đề đương thời. Có người nghiên cứu chuyên về văn sách đình đối thời Lê sơ nhận xét: “Văn sách đình đối có mối liên hệ mật thiết với đời sống thực tế nhất, thậm chí nó còn liên hệ với thực tế nhiều hơn cả một số thể loại văn chương sáng tác tự do khác. Sách vấn của Hoàng đế thường đem vấn đề tiêu biểu của thực tế trị nước để kiểm tra tình độ hay tư duy, năng lực vận dụng Nho giáo, vận dụng sách vở vào giải quyết những vấn đề thực tế đang thúc bách trong đó có cả hi vọng vào kiến tạo của sĩ tử”.[5]
Vấn đề mấu chốt không phải ở chỗ tri thức, tư tưởng Nho giáo lạc hậu hay tích cực, ở danh hiệu tiến sĩ hay không mà chính là vấn đề định hướng, cơ chế tuyển lựa, đào tạo năng lực, phẩm chất và quan lại – phương cách gắn liền Nho học – thi cử – quan trường. Ngay từ thời Lê Thái Tổ qua kì thi “ai tinh thông kinh sử thì được bổ làm quan văn”, càng về sau cách tuyển dùng ấy càng cụ thể, chi tiết hơn:
Năm 1434: Thi học sinh trong cả nước lấy đỗ hơn 1000 người bậc nhất và nhì đưa về Quốc Tử giám, bậc ba thì về học tại nhà học các lộ, đều cho miễn lao dịch. Không đỗ thì đuổi về làm dân. Năm 1485, tái khẳng định và bổ sung: “Nhân dân và quan sắc ai thi hương đỗ tam trường thì sung sinh đồ, đỗ tứ trường thì sung sinh viên. Nếu sinh đồ thi hương mà không trúng kì nào thì phải sung quân, trúng một kì thì về làm dân, chịu phú dịch như lệ cũ. Sinh viên mà thi hội không đỗ thì sung quân”.
Đương nhiên, trong suốt thời Lê sơ còn có phương thức tuyển chọn quan lại bằng cách tiến cử, bảo cử (như trên đã nói) nhưng tuyển chọn qua học – thi Nho là phổ biến, thường xuyên và quan trọng hơn cả.
Khi nhận xét về con đường học – thi – làm quan của thời kì này, Lê Quý Đôn (thế kỷ XVIII) nhận thấy: “Khoảng giữa niên hiệu Hồng Đức, mở rộng khoa cử, tuyển nhiều nhân tài, sĩ tử tập lối văn bong bảy đẽo gọt từng câu, mong sao thi đỗ để ra làm quan. Muốn tìm thấy những người khí tiết, khảng khái trong thời này xem ra có phần thưa thớt. Nhưng con đường bổng lộc đã mở ra thì phương pháp thi cử cũng nghiêm ngặt, người điềm tĩnh được tiến lên, người cầu may bị sang sảy, cho nên người tại chức ít thói cầu cạnh mà trong nước biết quý danh nghĩa.”[6]
Như vậy ngay từ thời Lê, trong số Nho học mà làm quan đã có kẻ cầu cạnh rồi (tuy có ít), “mong sao thi đỗ làm quan” đã trở thành hi vọng mong mỏi. Và “con đường bổng lộc” ấy đã hiếm hoi “kẻ tiết nghĩa, khảng khái”. Hay nói cách khác, chính cơ chế này của Lê sơ đã tạo ra bước ngoặc lớn nhất trong chế độ, phương thức chọn lựa quan lại kiểu này đã cuốn mọi người vào “đại lộ bổng lộc”. làm nảy sinh thường xuyên và ngày một gia tăng tình trạng sau:
Công thức học Nho – đi thi – làm quan làm cứu cách vào đời, lập nghiệp, trở thành định hướng “lí tưởng” lớn nhất của con trai. Nho học được coi là đồng nghĩa với trí thức, là tiêu chuẩn đầu tiên, lớn nhất, bao trùm của trí tuệ, Thế nhưng, đi học không phải với mục đích cao nhất, cuối cùng là tích lũy, sử dụng tri thức vào cuộc sống, vào giải quyết những vấn đề của xã hội mà là nhằm thay đổi thân phận, thấp nhất là thoát khỏi thân phận bạch đinh (dân thường). Và từ đó, đổ xô đi học đi thi trở thành đồng nghĩa với “hiếu học”. Học trường, đặc biệt là thi cử dần bị thương trường hóa. Người ta đổ xô đi học, số học trò ngày một nhiều; kì thi hương thường xuyên đông đúc; năm 1462 chỉ một trấn Sơn Nam cũng đã có khoảng 400 thí sinh, gần 1000 vào Tam trường, 100 người trúng tuyển. Các khoa thi hội ở Thăng Long, năm ít cũng 3200 người, năm nhiều đến trên 5000 người).
5. Tăng cường tư tưởng Nho giáo trong các mặt của đời sông kinh tế – xã hội
Nếu nét nổi bật trong tất cả mọi chính sách cai trị của nhà Lê sơ – được thành tựu tập trung vào thời Lê Thánh Tông, là cố gắng pháp điển hóa đến mức tối đa mọi quan hệ xã hội thì nội hàm chủ yếu của pháp điển ấy không có gì khác hơn chính là tư tưởng Nho giáo.
Không phải đến thời Lê sơ mô hình quân chủ, tập trung có ảnh hưởng Nho giáo mới có ở Việt Nam. Hệ tư tưởng Nho giáo, vốn đã thẩm thấu bằng nhiều phương cách từ các thể kỉ trước, được gia tăng mạnh qua 20 năm thuộc Minh (1407 – 1427). Tuy nhiên, chỉ đến thời Lê sơ, mô hình đó mới được tăng cường mạnh mẽ thành hướng tập trung, chủ đạo với tất cả những cố gắng trên mọi phương diện của nó. Sau ngày Bình Ngo, lại xảy ra hiện tượng – mà một số nhà nghiên cứu lịch sử văn hóa Việt Nam coi đó là “nghịch lý văn hóa”. Nếu Nguyễn Trãi (1380 – 1442) tự hào về “phong tục Bắc Nam cũng khác” thì đối với bộ phận trực tiếp cai trị đất nước, từ vua Trần đến Hồ Quý Ly, từ thế kỉ thứ XIII – XIV lòng tự hào, tự tôn dân tộc lại là “vô tốn Hoa hạ” – “không thua kém Hoa hạ” – muốn sánh ngang bằng triều đình Trung Hoa. Thời Lê sơ đã chủ động tiếp thu và mô phỏng ở mức cao nhất so với trước, những thể chế, hệ tư tưởng và lễ nghi của văn hóa Đông Á – vốn thấm đậm trong xã hội Đại Việt từ lâu thì nay bị coi là không hợp lễ, là thô lậu. Bản thân Lê Thánh Tông “sớm khuya không lúc nào rời sách vở” – những bộ sử sách về Hán, Đường, kinh điển Nho giáo.
Trong đời sống xã hội , chính quyền Lê sơ mà tiêu biểu là triều Lê Thánh Tông rất chú trọng đến chuyển tải giáo lí Nho giáo xuống đến tận cơ sở xã – thôn, gia đình, đến các giai tầng xã hội. Năm 1461 – tức chỉ hơn một năm sau khi lên ngôi, vị vua trẻ này đã cho ban bố 24 điều “Huấn dân đại cáo” (24 điều cốt yếu để giảng dạy, tuyên truyền trong dân).
Hơn 33 năm sau, năm 1499, con ông, vua Lê Hiến Tông lại trân trọng nhắc lại những điều này với mong muốn cho “đạo đức ngày một tiến, phong tục ngày thêm hay”, “việc trị an được lâu dài, công nghiệp tiến lên mãi mãi”.
Như vậy là mô hình Nho giáo với những nguyên tắc cơ bản nhất của cương, thường đã được ngưỡi lãnh đạo cao nhất của triều Lê sơ không ngừng vận dụng thành những điều “huấn” – khuyên răn vào đời sống xã hội Đại Việt, coi đó là việc quan trọng nhằm thiết lập, duy trì trật tự kỉ cương xã hội.
Có thể thấy rằng tinh thần Nho giáo mà Lê Thánh Tông muốn phổ cập xuống đến tận gia đình – cơ sở của xã hội mạng đậm yếu tố Lễ. Con người sống với nhau ít bằng tình thương yêu mà thông qua hay thể hiện qua những quy phạm, công thức. Đó là khuôn mẫu, nó có thể đem lại một trật tự, ổn định song nếu sự dụng quá mức “Lê sẽ thành đầu mối của hỗn loạn” (Lão Tử – Đạo Đức kinh).[7]
6. Nhà nước Lê sơ từng bước xây dựng theo hướng trung ương tập quyền và đạt tới mức độ cao vào triều Lê Thánh Tông
Những nội dung, hoàn cảnh lịch sử trên chính là những tiền đề, điều kiện vật chất – xã hội, tư tưởng tác động mạnh đến khuynh hướng tập quyền chuyên chế của thời Lê sơ. Và đến thời Lê Thánh Tông những điều kiện đó hội tụ, chín muồi. Thông qua hàng loạt biện pháp cải cách liên tục và lâu dài thành bộ máy nhà nước thời Lê sơ (triều Lê Thánh Tông) đã đạt đến tổ chức nhà nước quân chủ tập quyền mạnh. Đó là nhà nước quân chủ, quan lieu, chỉ huy quản lý và can thiệp vào mọi mặt đời sống của dân chúng từ kinh tế, chính trị đến xã hội, tư tưởng.
Trong 2 năm 1465 – 1466, thông qua việc đổi tên, lập thêm cơ quan mới triều đình, thực chất là tách 6 bộ ra khỏi Sành thượng thư để hình thành 6 cơ quan riêng biệt phụ trách các mặt công việc khác nhau của triều đình, chịu trách nhiệm thừa hành các công việc cụ thể được quy định trước vua.
Các cơ quan này dù trách nhiệm cụ thể khác nhau nhưng “lớn nhỏ lại ràng buộc nhau” trong quản lí, điều hành, thực hiện các công việc chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa – xã hội. Lục khoa là các cơ quan thanh tra, giám sát quan lại. Bộ Lễ nghi thức không hợp thì lễ khoa được phép đàn hặc, bộ Hộ thì có hộ khoa giúp đỡ, hình khoa xét lại, thẩm đoán của bộ Hình… Lục tự phụ trách các công việc phụ…
– Bãi bỏ chế độ sử dụng các vương hầu quý tộc và các trọng chức của triều đình, lấy trình độ học vấn Nho giáo làm tiêu chuẩn. Các thân vương, công hầu, công chúa được ban cấp hơn hẳn các quan chức song nếu không đỗ đạt thì không được làm quan.
– Cùng và tiếp sau cải tổ bộ máy triều đình trung ương, năm 1466 triều Lê Thánh Tông chia lại các đơn vị hành chính trong cả nước thành 12 đạo thừa tuyên. Nhưng các thừa tuyên không có chức quan đứng đầu, cai quản tất cả mà có 2 ty: Đô ty trông coi việc quân sự, an ninh. Thừa ty trông coi hành chính, tư pháp. Năm 1471, sau lần mở mang lãnh thổ về phương Nam, triều Lê đặt thừa tuyên Quảng Nam, tăng ở các thừa tuyên ty hiến sát sú coi giữ việc giám sát, đàn hặc, xét hỏi, khảo khóa.
Đến đây thì mỗi thừa ty đều có 3 ty ngang quyền nhau, chịu trách nhiệm trước triều đình theo hàng dọc.
Đến năm 1490, khi đổi thừa tuyên thành xứ, ngoài phủ Trung Đô cả nước có 13 xứ: Thanh Hóa, Nghệ An, Sơn Nam, Sơn Tây, Kinh Bắc, hải Dương, Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hưng Hóa, Lạng Sơn, An Bang, Thuận Hóa, Quảng Nam bao gồm 53 phủ, 178 huyện, 50 châu, 20 hương, 36 phường, 6851 xã, 322 thôn. 637 trang, 40 sách, 40 động, 30 nguyên, 30 trường.
Như vậy, qua cơ cấu tổ chức, triều Lê Thánh Tông đã tạo ra hệ thống hành chính thống nhất từ trên xuống, gắn địa phương với trung ương vừa nhắm tới mục tiêu tập trung quyền lực, chỉ đạo của vua, hạn chế xu hướng li tâm, vừa phân chia chức trách, giảm thiểu sự chồng chéo của các cơ quan, địa phương.
Mục tiêu quản lí đất nước, định hướng, cải tổ bộ máy chính quyền được triển khai như trên, theo quan niệm của Lê Thánh Tông là: “Đồ bản, đất đai ngày nay so với trước đã khác xa nhau, ta cần phải tự mình giữ quyền chế tác hết đạo biến thông”; “Cốt để quan to, quan nhỏ cùng ràng buộc nhau, chức trọng, chức thường kìm chế lẫn nhau, uy quyền không lạm dụng, lẽ phải không bị lung lay, khiến mọi người có thói quen theo đạo giữ phép không lầm lỗi làm trái nghĩa”.
Theo Quan chế tổng mục trong Dư hạ tập thì vào năm 1471 tống số quan lại là 5370 người. Đánh giá bộ máy quan liêu thời Lê Thánh Tông, một nhà nghiên cứu nước ngoài đã nhận xét: “Có trình độ chuyên môn hóa cao hơn hẳn các nước khác trong khu vực Đông Nam Á và thậm chí ngay cả ở Phương Tây thời trung cổ cũng không biết đến một chính quyền với các cơ quan chức năng hoàn chỉnh đến như vậy”.[8]
Quá trình tập trung, hoàn thiện bộ máy quan lieu ấy làm nảy sinh và song hành quá trình sau đây:
7. Triều Lê sơ từng bước đi đến pháp điển hóa tối đa mọi quan hệ kinh tế – chính trị – xã hội
Đường lối trị nước của nhà Lê không phải là phát minh đột xuất mà có những nguồn cội lịch đại, đồng đại, chịu những tác động trong, ngoài.
Từ Lê Thái Tổ đã quan tâm “ấn định luật lệ, chế tác lễ nhạc, xây dựng quan chức, thành lập phủ huyện", qua Lê Thái Tông “bên trong ức chế quyền thần, bên ngoài đánh dẹp di địch, trọng đạo sung Nho, mở khoa chọn kẻ sĩ”. Lê Thánh Tông là sự kế thừa tiếp nối, phát triển lên đỉnh cao những quan điểm chính trị của các nhà vua Lê trước.
Trong cuộc đời làm vua, Lê Thánh Tông nhất quán quan điểm tăng cường vai trò cá nhân triệt để, toàn năng, điều hành bộ máy nhà nước cực quyền, toàn trị.
Quan điểm và định hướng này, một mặt có liên quan đến cá tính, tài năng, phẩm chất cá nhân Lê Thánh Tông. Là vị hoàng đế đầy tự tin, có phần tự cao, kiên định ý chí, quyết đoán, ông can thiệp vào và trực tiếp điều hành ở mức tối cao tất cả mọi mặt của triều đình và hàng ngũ quan liêu, không thông qua vai trò của chức tể tướng đầu triều như các triều đại khác. Việc trực tiếp ra chỉ thị, khen thưởng, quở trách, hạ nhục, trừng phạt các triều thần là chuyện bình thường của Lê Thánh Tông.
Nhưng điều quan trọng để tiến tới thể chế hóa các quan hệ xã hội là vị nó được dựa trên những trụ cột vững chắc của chế độ: Hệ thống quan liêu hoàn chỉnh, quân đội mạnh, pháp luật cụ thể, nghiêm ngặt và hệ tư tưởng lễ giáo chặt chẽ.
– Như tín đồ nhiệt thành của chủ nghĩa quy phạm khi Lê Thánh Tông tuyên bố: “Người ta sở dĩ khác loài cầm thú là vì có lễ để làm khuôn phép”. Trong cuộc đời làm vua gần 40 năm, theo thống kê chưa (và thật khó) đầy đủ thì Lê Thánh Tông trực tiếp ra đến 148 lệnh chỉ, sắc dụ từ những việc tầm vĩ mô, từ trung ương tới địa phương (như luật pháp triều đình, hương ước của làng xã)[9] đến những việc rất tỷ mỉ của mọi mặt đời sống của quan liêu, dân chúng (như cách thức hôn thú, tang ma, mũ áo, xưng hô, đi đường, tâu bày, quỳ lạy…).
Quá trình thể chế hóa, quan liêu hóa ngày một rộng, sâu trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội như trên dẫn đến khuynh hướng, một thực tế tiếp theo trong xã hội thời Lê sơ là:
8. Chính quyền ngày càng quan liêu, xa dân
Đã lùi vào quá khứ thời kì “Dựng gậy làm cơ, tụ tập khắp bốn phương manh lệ. Hòa rượu mời lính, trên dưới một dạ cha con” (Bình Ngô đại cáo) với những hình ảnh cụ thể, sinh động của thời 10 năm kháng chiến chống quân Minh: “Vừa đem quân đến, già trẻ tranh nhau đem trâu rượu đến đón và khao quân”; “Những châu huyện nào chúng ta đi tới đâu không được mảy may xâm phạm của dân. Nếu không phải là trâu bò, thóc lúa của ngụy quan thì dẫu đói khát khốn khó đến đâu cũng không được lấy bậy”; “quân lính đã ba ngày không được ăn mà vẫn không có ai vi phạm lệnh đó. Dân thấy pháp lệnh ban ra và thi hành nghiêm ngặt như vậy liền đem hết trâu bò, thóc lúa của giặc Minh cấp cho quân lính đến châu huyện nào, người ta đều nghe tiếng mà quy phụ”, “Nhân dân trong vùng dắt díu nhau tới đông vui như đi chợ, vua vỗ về phủ dụ, mọi người đều hân hoan vui vẻ”; “Quân ta đi đến đâu không mảy may xâm phạm của dân, chợ búa không thay đổi hàng quán,chỗ nào cũng vui mừng tranh nhau mang trâu, dê, cơm, rượu đến khao quân lính”.
Bây giờ, trong các lệnh chỉ, sắc dụ của vua, văn bản của quan vẫn nhắc, thậm chí ngày một nhiều đến dân. Chẳng hạn:
Lê Thái tổ viết thành thơ: “Duy dục biên manh xích tử lô” (mong cứu dân đen cõi biên thùy)
Thái Tông không phải một lần nhắc đến “dân” trong các chỉ dụ “Trên thì yêu vua, dưới thì yêu dân. Yêu dân phải hết lòng thành”.
Năm 1437: Vua xuống chiếu “mấy năm nay hạn hán sâu bọ liên tiếp sảy ra, tai dịch có luôn, phải giảm bớt hình phạt, giảm thuế khóa để yên lòng dân”.
Năm 1438: Cũng vì chuyện thiên tai liên mien mà xuống chiếu tự hỏi “… Nhiều công trình thổ mộc để sức dân mỏi mệt, thuế khóa nặng nề mà dân túng thiếu?”
Năm 1443: “… nhiễu hại dân chúng nên hại đến hòa khí chăng?”
v.v..
Năm 1437 Nguyễn Trãi đã khẩn khoản và cảnh báo: “Xin bệ hạ yêu muôn dân để chốn xóm thôn không còn tiếng oán hận buồn than”.
Nhưng, oái ăm thay, càng nhắc đến dân, coi việc yên dân thành mục đích phấn đấu cai trị, chăn dắt của triều đình thì càng quan liêu, càng xa dân và điều cảnh báo của Nguyễn Trãi ngày một thêm rõ rệt.
Từ hình thức dễ nhận ra:
Năm 1435: Người giữ tiền bạc sổ sách của cả nước thì chậm trễ hoặc gây khó dễ, thuế đáng thu hay đáng miễn thì không chịu phê tâu dứt khoát để làm khổ dân. Người coi quân thì không thương dân. Mượn đồ của dân vứt bỏ bừa bãi đến nỗi hỏng, mất đến khi có việc lại hạch sách. Kẻ coi dân thì chỉ vụ lợi riêng, không lo nuôi dưỡng dân hoặc tha cho người giàu, bắt tội người nghèo”.
Năm 1437: Vua yết Thái miếu bãi trò hát chèo, không tấu dâm nhạc nữa.
Năm 1448: Vua về Lam Kinh. Dân Thanh Hóa thấy xa giá đến, trai gái đem nhau tới tới hát rí ren ở hành tại, tục hát rí ren này, một bên con trai, một bên con gái dắt tay nhau ca hát có lúc tréo chân, tréo cổ nhau gọi là cắm hoa, kết hoa, trông rất là xấu. Đài quan Đồng Hanh Phát bẩm với Thái úy Khả: “Đấy là thói dâm, tục xấu, không thể nhảm nhí trước xa giá. Khả lập tức sai cấm hẳn”.
Năm 1465: Cấm bọn con hát không được giễu cợt cha mẹ quan trưởng.v.v..
Đến tình hình thực tế:
Năm 1434: Có tình hình được phản ánh trong lệnh chỉ là: “Quân nhân đều tâu báo vượt cấp, cấu kết với nhau để đi kiện người, bỏ phế mọi việc của dân, quấy rối triều đình không gì tệ hơn”. Và quy định: “Từ nay quân hay dân nếu có vụ kiện nào nhỏ thì cho tới xã quan của xã mình mà trình bày, xã quan không giải quyết được mới lên huyện. Huyện không được mới lần lượt lên lộ, lên phủ. Phủ không giải quyết được bấy giờ mới tâu lên. Các vụ kiện ruộng đất cũng thế. Các quan xét xử phải công bằng không được nhận đút lót để làm sai”.
Năm 1448 sau khi điều tra ở Ngũ hình viện từ năm 1444 đến 1447 còn đọng tới 125 án.
Các năm sau: 1451,1456, 1460, 1466, 1467… vẫn liên tục phải nhắc phải nhắc đến tình hình án đọng lâu và ra những quy định về thời hạn xét các vụ kiện tụng. Tuy nhiên, tình hình vẫn chẳng khá hơn, thậm chí vào năm 1460,khi quy định từ nay về sau xét thêm việc kiện tụng phải mỗi tháng 3 lần trình lên coi đó là định chế lâu dài, hình quan vẫn chống chế rằng: “Sợ rằng hình án nhanh thì khinh xuất có thể dẫn tới oan uổng, vì thế phải để chậm mà suy nghĩ cho chín, thẩm định lại cho tường”. Năm 1465: “Dân chúng thựa kiện phiền toái, sổ sách giấy tờ làm vội, quan không thể soi xét hết được”.
– Trong một lệnh cầm năm 1484 cho thấy sau nhiều lần cấm tình trạng ức hiếp dân, mua rẻ bán đắt của bọn có quyền lực vẫn không thay đổi: “Việc mua bán ức hiếp đã có lệnh cấm rất nghiêm mà các nhà quyền, hào vẫn chưa thay đổi, hại dân chúng hỏng chính sự không gì bằng. Các nhà sắm sửa lễ vật cưới xin, nếu mua bán ở chợ dân gian, hàng hóa lớn nhỏ phải theo thời giá, không được quen thói gian ngoan như trước, ỷ thế cậy oai mua hiếp cướp đoạt của dân”.
Năm 1471 sau 12 năm lên ngôi, trong sắc dụ các quan thừa tuyên phủ huyển Sơn Nam, Lê Thánh Tông nêu tình trạng: “Bọn các ngươi giữ trọng trách ở một địa phương, thân yêu dân là trách nhiệm… lại chỉ chăm chắm làm những việc roi vọt, sổ sách”.
Năm 1485, trong sắc dụ không phải cho riêng một xứ nào mà cho tất cả quan Thừa, Hiến, phủ huyện, châu các xứ trong cả nước, Lê Thánh Tông đã “kiểm điểm” tình hình: “Trẫm từ khi lên ngôi đến bây giờ, tất cả những phép dạy dân nên phong tục tốt, những việc dấy lợi trừ hại cho dân, không điều gì không nói rõ trong các huấn dụ… Thế mà của cải của dân vẫn chưa được dồi dào, phong tục của dân vẫn chưa được sửa tốt. Phải chăng do bọn ngươi chỉ lấy sổ sách làm việc gấp mà coi giáo lệnh chỉ là mớ hư văn, xem ước hẹn, hội họp là cần trước tiên mà để phong tục của dân ra ngoài suy nghĩ”. Đấy không chỉ đơn giản là sốt ruột của một ông vua sau tròn một phần tư thế kỷ lên ngôi, tiến hành cải cách, xây dựng đội ngũ quan lại, cách thức cai trị mà còn phản ảnh cả một thực trạng.
Quan liêu, xa rời dân trong suốt từng năm không những không được khắc phục mà còn lan rộng. Tình trạng – “bệnh” quan liêu là thuộc tính nảy sinh, lây nhiễm, phát triển của kiểu thức quản lí hành chính này.
9. Tiểu nông hóa nền nông nghiệp, nông thôn
Tất cả những nội dung, đặc điểm của tiến trình chính trị, quản lý hành chính, giáo dục, tư tưởng trên diễn ra trên quá trình tiểu nông hóa nông nghiệp và nông thôn mạnh mẽ ở thời Lê sơ.
Trước thời Lê sơ nông nghiệp, nông thôn Đại Việt từng tồn tại loại hình kinh tế đại điền trang với kiểu bóc lột nông nô nô tỳ thời Lý, Trần. Nền kinh tế ấy cơ bản đã bị thủ tiêu từ cuối thế kỷ XIV. Sang thời Lê sơ, chế độ “lộc điền” quy mô lớn chưa từng có, thấp nhất là quan tong tứ phẩm cũng 39 mẫu.Còn từ bá trở lên đến thân vương cũng hàng trăm, đến ngàn mẫu trở lên (thân vương 2170 mẫu, thân công chúa: 1456 mẫu, tự thân vương, thân vương thể tử: 1316 mẫu, quốc công: 1074 mẫu, quận công: 1002 mẫu, hầu: 870 mẫu, bá: 698 mẫu). Chế độ lộc điền, như tên gọi của nó – trở thành chế độ ban thưởng của các nhà nước với quý tộc, công thần, quan liêu cao cấp góp phần đáng kể vào việc củng cố bộ máy quan liêu, tăng cường quyền lực cho chính quyền.[10] Nhưng, hiệu ứng về xã hội nó tạo ra sự cách biệt quá xa về tài sản ruộng đất giữa đẳng cấp quý tộc, quan liêu cao cấp với bộ phận còn lại, kích thích khuynh hướng tìm lợi ích kinh tế từ quan chức trong bộ máy chính quyền. Quan trường trở thành đấu trường để giành giật quyền lợi”.[11] Chế độ lộc điền thời này cũng không có cơ sở để phục hồi chế độ đại điền trang. Hàng trăm, hàng ngàn mẫu lộc điền ấy lại được phân bố ra khắp các địa bàn, không được tập trung vào một chỗ thì trừ một phần khoảng 29 – 30% làm đất thế nghiệp, lộc điền trên nguyên tắc vẫn thuộc quyền sở hữu của nhà nước, chỉ cho quyền tạm thời hưởng dụng, không cho quyền sở hữu. Người được phong sau khi chết 3 năm thì con cháu phải chiếu số trả lại, không được ẩn lậu chiếm nhận. Người được cấp chỉ có quyền hưởng dụng tô, còn nông dân cày cấy ruộng đất ấy vẫn là thần dân của vua.
Nói đến quản lí làng xã truyền thông, chủ yếu và trước hết là nói tới quản lý ruộng đất công và dân đinh.
Đối với ruộng đất công làng xã,, nhà nước áp dụng chế độ quân điền (lần đầu tiên được thực hiện vào năm 1429 – 1433, rồi hoàn thiện vào năm 1481). Tuy phản ảnh phần nào thành tích đấu tranh từ kháng chiến của nhân dân, của binh lính nhưng thực chất và xuất phát điểm của quân điền là xác nhận lại quyền sở hữu của nhà nước với ruộng đất công của xã thôn và trên cơ sở đó nhà nước tiến hành bóc lột tô, củng cố quan hệ địa chủ – tá điền, nhà vua trở thành chủ trực tiếp của toàn bộ số ruộng đất công làng xã trên phạm vi cả nước. Làng xã chỉ còn giữ vai trò quản lý ruộng đất công cho nhà vua mà thôi. Với chế độ quân điền thời Lê sơ – Việt Nam: Nhà nước khẳng định và thực thi quyền sở hữu trực tiếp của mình với ruộng đất công làng xã trên phạm vi cả nước.Nếu khi chế độ đại điền trang vừa tan rã, rồi đất nước vừa thoát khỏi chiến tranh, phạm vi công điền công thổ còn lớn thì chế độ quân điền có tác dụng nhất định, củng cố địa bàn nông thôn, điều hòa bất bình xã hội, ổn định trật tự trị an xã hội thời hậu chiến. Nhưng hơn nửa thế kỷ sau, từ nửa thế kỷ XV quân điền lại trở thành đối trọng kìm hãm sự phát triển tư hữu ruộng đất, kinh tế hàng hóa, trói buộc nông dân vào ruộng đất, vào thế độc canh và tổ chức xã thôn, tăng thêm tình trạng bất ổn định ở nông thôn.
Không phải đến thời Lê sơ ruộng đất tư mới phát triển nhưng cùng với sự tan rã của chế độ điền trang thái ấp cuối thời Trần thì chế độ tư hữu ruộng đất càng có điều kiện phát triển và bộ phận chủ ruộng tư càng có trở thành lực lượng xã hội lớn mạnh. Chính Lê Lợi – vị vua khai sáng triều đại mới là đại diện cho bộ phận này. Nếu căn cứ vào việc miễn đánh thuế ruộng tư thì có thể suy đoán đơn giản rằng ruộng tư ít hơn ruộng công nhiều, rằng chính quyền tạo điều kiện cho ruộng tư phát triển bằng chính sách miễn thuế. Nhưng đó lại không phải là tình trạng thực tế.
Chế độ ruộng đất tư ở lịch sử phong kiến Việt Nam nói chung vận động trong thế mâu thuẫn giữa một bên là xu hướng phát triển tự nhiên với một bên là sự kìm hãm bằng cơ chế, chính sách.
Có những tác động mạnh đến quá trình hình thành, tăng cường ruộng đất từ thời Lê (và cũng suốt trong lịch sử phong kiến nữa):
Nạn “chiếm công vi tư”: ruộng công bên cạnh ruộng tư là tình trạng “mỡ” – ruộng công treo “miệng” mèo – kẻ cường hào, địa chủ.
– Tình trạng “kiêm tính ruộng đất” của địa chủ, của bọn có quyền thế với nhiều cách thức từ mua bán đến cướp đoạt, ức hiếp.
Cả hai hình thức này đều thấy được phản ánh trong các lệnh chỉ, pháp luật thời Lê sơ. Chẳng hạn, vì có tình trạng xâm lấn bờ, mốc ruộng – vốn là một chỉ định chủ quyền, một biểu hiện cụ thể của nền kinh tế tiểu nông lúa nước – giữa các chủ, giữa ruộng công và tư – nhà nước phải nhiều lần cấm, trong đó lấn ruộng công thì tội gia thêm một bậc (các điều 352, 354, 356, 368, 377, 378, 381, 382, 383, 385 Quốc triều hình luật ).
Dù cấm nhưng tình trạng đó vẫn luôn xảy ra, không trừ một nơi nào. Ngay cả Lam Sơn – “quê hương bản bộ” của nhà vua vẫn có “các nhà thế gia hay xâm phạm lễ pháp, xem thường hình chương, tự chiếm đất làm của riêng” khiến Lê Thánh Tông phải sai quan khám xét “lập định giới hạn” vào năm 1467.
Con đường phát triển thành bộ phận kinh tế chủ đạo của xã hội của ruộng đất tư và kinh tế địa chủ tư thời Lê sơ trở đi, diễn ra (hay trả giá) chủ yếu là quá trình cướp đoạt, tranh giành, kiện tụng triền mien, ẩu đả, sát hại lẫn nhau, của những thủ đoạn kiêm tinh từ tinh vi đến trắng trợn.
Nhà nước từ thời Lý – Trần có những biện pháp đế nắm dân số làng xã. Đời Trần đã yêu cầu các quan phải khai báo nhân khẩu trong làng xã vào trướng tịch (sổ hộ khẩu). Gần một năm sau hòa bình, Lê Thái Tổ đã cho làm sổ hộ tịch, ra lệnh chỉ đặt xã quan, phân chia quy mô xã theo số dân đinh. Từ đấy trở đi việc nắm hộ khẩu, dân đinh ngày càng được tăng cường thành mục tiêu hàng đầu của chính quyền Lê sơ. Đến Lê Thánh Tông thì 3 năm sửa một lần sửa lại sổ hộ tịch, thậm chí năm 1465 “quan các phủ huyện châu gọi các xã quan lên, mỗi người đem sổ hộ khẩu của xã mình đến kinh đối chiếu mà viết”. Trong luật pháp thời Lê, có đến hàng chục điều quy định chặt chẽ, cụ thể về việc điều tra nhân đinh, trừng phạt nặng người trốn tránh, ẩu lậu lẫn kẻ quản lí khai thiếu sót hoặc che giấu.[12]
Nói chung thì từ Trần trở đi, nhà nước phong kiến Việt Nam chưa bao giờ lấy số lượng ruộng đất làm tiêu chuẩn định quy mô làng xã mà chỉ dựa vào tiêu chuẩn số lượng định hoặc hộ (gia đình) mà ít nhất là từ năm 1483 về trước là dựa vào số nhân đinh, về sau – trong thời Lê Thánh Tông vào số hộ gia đình.
Lấy số lượng đinh làm tiêu chuẩn nhà nước có thể dựa vào đó kiểm soát, bổ sung ngân sách quốc gia (nếu có thu thuế đinh), huy động binh dịch, tạp dịch, phu phen – những điều đặc biệt cần thiết cho những việc huy động, phân bố các công việc thường kì hay đột xuất (đắp đê, chống lũ, phục dịch các công trình, dẹp loạn…).
Còn dựa vào tổ chức hộ gia đình thì không chỉ tất cả những yêu cầu trên vẫn được bảo đảm mà còn nhằm đạt tới nhiều nhu cầu kinh tế, xã hội khác. Qua gia đình – tế bào của xã hội, cốt lõi của trật tự, đạo đức, lí tưởng của tổ chức xã hội theo mô hình Nho giáo, đơn vị sản xuất cơ bản nhất trong nền kinh tế tiểu nông, triều đình Lê Thánh Tông vừa nhằm củng cố kết cấu hạt nhân cơ bản để xây dựng và ổn định trật tự xã hội Nho giáo vừa tăng cường được đơn vị cơ bản của sản xuất tiểu nông.
Như vậy, khi với tay xuống cấp làng xã qua chế độ quân điền – quản lý ruộng đất công làng xã và hộ tịch – nắm gia đình, nhà nước Lê sơ vừa mong nắm mọi nguồn thu thuế, huy động nghĩa vụ của thành viên làng xã, vừa giữ hay cột chặt nông dân vào làng xã để quản lý hộ khẩu, nhân đinh, tăng cường sức lao động cho độc canh nông nghiệp lúa nước, hạn chế buôn bán, chạy chợ, rồi tuyển chọn xã trưởng có tri thức nho học, làm cầu nối giữa nhà nước với làng xã. Thế nhưng, chính sách này lại mẫu thuẫn với chính nền tảng của nền kinh tế độc canh tiểu nông tự nó hàng ngày nảy sinh ra nhu cầu, những hoạt động kinh tế quấn quyện vào nhau như buôn bán nhỏ, làm nghề thủ công.
Kết luận:
Không nghi ngờ gì thời Lê sơ mà tập trung là giai đoạn Lê Thánh Tông trị vì, chế độ phong kiến nhà nước quan liêu đã đạt tới sự ổn định, kỉ cương và thịnh trị thường vẫn được coi vào bậc nhất trong chế độ phong kiến Việt Nam. Thế kỉ XV như là thể kỉ cổ điển của chế độ nhà nước quân chủ phong kiến quan liêu.
Đương thời cũng như hậu thế, các sử gia phong kiến hay hiện đại đều có chung một đánh giá về sự ổn định và thành tựu của nhiều lĩnh vực trong giai đoạn Lê Thánh Tông.
Tuy nhiên, chỉ không đầy một thập kỷ sau khi Lê Thánh Tông qua đời, triều đình nhà Lê rơi vào cảnh hỗn loạn, suy thoái dẫn đến sự thay thế triều Lê sơ bằng chính quyền nhà Mạc. Như thế, sự anh minh, quyết đoán của một vị vua, cùng với bộ máy hành chính quan liêu ngày càng được tổ chức quy củ, một hệ thống luật pháp chặt chẽ và cứng như thời Lê Thánh Tông rõ ràng là rất dễ “vỡ”, dễ “gẫy” (chưa đủ hay là chưa thật phù hợp) chưa hội đủ các yếu tố tự thân tạo khả năng thích ứng với sự vận động tiếp tục, tất yếu của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội để trở thành bảo đảm bằng vàng cho sự tiếp tục ổn định, phát triển bền vững một chế độ, một xã hội.
Chú thích:
[1] Tất cả những chữ in nghiêng trong bài này không có dấu chú thích đều trích từ Ngô Sỹ Liên và sử thần triều Lê, Đại Việt sử ký toàn thư (Bản dịch), Tập II, Nxb. KHXH, H, 1993.
[2] Lê Quý Đôn, Đại Việt thông sử (Bản Dịch), Nxb. KHXH, H, 1976, tr. 181.
[3] . Sđd, tr. 172.
[4] Xem: Phan Đại Doãn, Lê Thánh Tông và Nho học – Nho giáo trong sách Lê Thánh Tông con người và sự nghiệp, Nxb. Đại học quốc gia, H, 1997, tr. 299-300.
[5] Xem: Nguyễn Tuấn Thịnh, Văn sách đình đối thời Lê Thánh Tông với một số vấn đề thiết yếu trị nước, an dân, trong Lê Thánh Tông con người và sự nghiệp, Sđd, tr. 386-387.
[6] . Lê Quý Đôn, Kiến văn tiểu lục (Bản dịch), Nxb. KHXH, H, 1977, tr.259.
[7] Xem: Nguyễn Thừa Hỷ, Về đường lối trị nước của Lê Thánh Tông trong sách Lê Thánh Tông con người và sự nghiệp, Sđd, tr.71 – 85.
[8] O. Bezin, Đông Nam Á thế kỷ XIII – XVI, Matxcơva, 1982, tr. 179.
[9] Xem: Bùi Xuân Đính, Vua Lê Thánh Tông và pháp luật trong sách Lê Thánh Tông con người và sự nghiệp, Sđd, tr. 107 – 118.
[10] Xem: Phan Huy Lê, Chế độ ruộng đất và kinh tế nông nghiệp thời Lê sơ, Nxb. Sử học, H,1959.
[11] Xem: Vũ Minh Giang, Mấy suy nghĩ về chính sách ruộng đất thời Lê Thánh Tông trong Lê Thánh Tông con người và sự nghiệp, Sđd, tr. 207.
[12] Xem: Nguyễn Quang Ngọc, Chức danh xã trưởng dưới thời Lê Thánh Tông trong Lê Thánh Tông con người và sự nghiệp, Sđd, tr.153-170.
Nguồn: Lê Thị Sơn, Quốc Triều Hình Luật, lịch sử hình thành nội dung và giá trị, Nxb. Khoa học Xã hội, tr.7-42.
Theo Website Khoa Lịch sử, khoalichsu.ussh.vnu.edu.vn, 20-03-2013.
Ý kiến bạn đọc
Thứ sáu - 22/11/2024 18:11
Thứ năm - 21/11/2024 10:11
Thứ tư - 20/11/2024 15:11
Thứ ba - 19/11/2024 15:11
Thứ ba - 19/11/2024 14:11