Nguyễn Phúc Nguyên: Vị chúa của những kỳ công mở cõi đầu thế kỷ XVII (GS.TS. Nguyễn Quang Ngọc)

Thứ hai - 07/08/2023 23:56
Dưới quan điểm sử học mới, càng ngày chúng ta càng nhận ra rõ hơn, đầy đủ và chân xác hơn bức chân dung toàn hảo của ông – một vị Chúa Nguyễn kiệt xuất nhất trong lịch sử dân tộc, người Anh hùng đứng ở vị trí hàng đầu của những Anh hùng Mở cõi Việt Nam.
NGUYỄN PHÚC NGUYÊN:
VỊ CHÚA CỦA NHỮNG KỲ CÔNG MỞ CÕI ĐẦU THẾ KỶ XVII
 
Nguyễn Phúc Nguyên là con thứ 6 của chúa Nguyễn Hoàng, sinh năm Quý Hợi (1563), sau khi Nguyễn Hoàng đã vào trấn thủ ở Thuận Hoá được 5 năm. Là người đại diện cho xu thế phát triển của đất nước, Nguyễn Hoàng quyết chí vào Nam dựng nghiệp với hàng loạt những dự định lớn lao. Ông toàn tâm, toàn ý chăm lo phát triển kinh tế, tăng cường tiềm lực về mọi mặt, chú trọng xây dựng các đội thuyền, mở cửa buôn bán với nước ngoài để phát huy sức mạnh trong nước và chuẩn bị những bước đi xa hơn cho các thế hệ con cháu. Lê Quý Đôn, người đứng trên lập trường của họ Trịnh cũng không thể không ca ngợi: “Đoan quận công có uy lược, xét kỹ nghiêm minh, không ai dám lừa dối… chính sự khoan hoà, việc gì cũng thường làm ơn cho dân, phép tắc công bằng, nghiêm giữ quân sĩ có kỷ luật, cấm chấp kẻ hung bạo. Quân dân hai xứ đều mến yêu kính phục; thay đổi phong tục xấu, ai ai cũng cám ơn và mến đức. Chợ không có hai giá, trong dân gian không có trộm cướp, đêm không phải đóng cổng; thuyền ngoại quốc đến buôn bán, việc giao dịch phân minh, ai cũng cố gắng, toàn cõi nhân dân an cư lạc nghiệp. Hàng năm nộp thuế má để giúp việc quân, việc nước, triều đình cũng được nhờ” [1]. Trong số các con trai của Nguyễn Hoàng, người con đầu là Hà, con thứ hai là Hán, con thứ ba là Thành, con thứ tư là Diễn đều đã mất sớm; người con thứ năm là Hải thì phải gửi lại trên đất Bắc làm con tin, chỉ còn một mình Nguyễn Phúc Nguyên là người có đủ khả năng và điều kiện kế nghiệp cha. Tuổi nhỏ Nguyễn Phúc Nguyên đã tỏ ra là bậc thông minh, tài trí hơn người. Lớn lên ông càng bộc lộ tài năng kiệt xuất “ngày thường cùng các tướng bàn luận việc binh, tính toán có nhiều việc đúng. Thái Tổ biết có thể trao phó nghiệp lớn, vẫn để ý tới” [2]. Nguyễn Phúc Nguyên đã không phụ lòng tin của cha, thực hiện đầy đủ và trọn vẹn tất cả những gì mà người cha – chúa Nguyễn Hoàng trông đợi và uỷ thác.

1. Xây dựng một vương triều độc lập, thoát ly hẳn sự lệ thuộc với triều đình vua Lê chúa Trịnh

Đây là mục tiêu số một của Nguyễn Hoàng khi quyết định vào Nam dựng nghiệp. Tuy nhiên do điều kiện và hoàn cảnh lúc đó, ông phải hết sức kín đáo để tránh mọi sự hoài nghi của chúa Trịnh. Trên danh nghĩa và cả trong thực tế, Nguyễn Hoàng vẫn phải giữ quan hệ lệ thuộc với chính quyền Lê – Trịnh, vẫn làm tướng tiên phong của Nam Triều đi đánh dẹp các dư đảng của nhà Mạc ở Sơn Nam, Hải Dương, Sơn Tây, Thái Nguyên… Cuối năm 1600, sau khi quyết định trở về ở hẳn Thuận Hoá, đẩy mạnh xây dựng chính quyền độc lập và không nghĩ đến việc quay trở về yết kiến vua Lê nữa, Nguyễn Hoàng vẫn phải giữ quan hệ hoà hiếu với chính quyền Lê – Trịnh, hàng năm vẫn phải nộp thuế má và xin kết nghĩa thông gia với Trịnh Tùng. Sự nghiệp xây dựng một vương triều độc lập của Nguyễn Hoàng tuy đã có cơ sở bước đầu nhưng vẫn còn hết sức mong manh. Đây chính là điều ông trăn trở nhất và cũng là sự uỷ thác cao nhất cho Nguyễn Phúc Nguyên trước lúc qua đời. Sách Đại Nam thực lục Tiền biên chép: “Chúa yếu mệt, triệu Hoàng tử thứ sáu và thân thần đến trước giường, bảo thân thần rằng: “Ta với các ông cùng nhau cam khổ đã lâu, muốn dựng lên nghiệp lớn. Nay ta để gánh nặng lại cho con ta, các ông nên cùng lòng giúp đỡ, cho thành công nghiệp”. Rồi Chúa cầm tay Hoàng tử thứ sáu dặn bảo rằng: “Làm con phải hiếu, làm tôi phải trung; anh em trước hết phải thân yêu nhau. Mày mà giữ được lời dặn đó thì ta không ân hận gì”. Lại nói: “Đất Thuận Quảng phía Bắc có núi Ngang [Hoành Sơn] và sông Gianh [Linh Giang] hiểm trở, phía nam ở núi Hải Vân và núi Đá Bia [Thạch Bi Sơn] vững bền. Núi sẵn vàng sắt, biển có cá muối, thật là đất dụng võ của người anh hùng. Nếu biết dạy dân luyện binh để chống chọi với họ Trịnh thì đủ xây dựng cơ nghiệp muôn đời. Ví bằng thế lực không địch được, thì cố giữ vững đất đai để chờ cơ hội, chứ đừng bỏ qua lời dặn của ta” [3].

Thực hiện Di chúc của người cha, Nguyễn Phúc Nguyên đã từng bước ly khai hẳn với triều đình Lê – Trịnh, không chịu nộp thuế, không về chầu triều đình và đánh bại cuộc tấn công quy mô lớn của Trịnh Tráng vào năm 1627, mở đầu cho cuộc chiến tranh Trịnh – Nguyễn kéo dài 45 năm (từ năm 1627 đến năm 1672) với 7 chiến dịch quy mô lớn (trong đó có 6 cuộc quân Trịnh chủ động tấn công vào địa phận của chúa Nguyễn). Về hình thức thì đây là cuộc nội chiến ác liệt, kéo dài và không phân thắng bại, nhưng nếu xét theo mục đích của cuộc chiến tranh thì thất bại lại thuộc về chính quyền Lê – Trịnh. Lâu nay có nhiều cách đánh giá khác nhau về cuộc nội chiến  Trịnh – Nguyễn. Đương nhiên cuộc chiến tranh đã tiêu huỷ sức người, sức của, triệt phá đồng ruộng xóm làng và dẫn đến chia cắt đất đai thống nhất của quốc gia Đại Việt thì ai cũng nhìn thấy rõ. Chúng ta không thanh minh, không bao biện cho các cuộc chiến tranh, nhất là các cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn, nhưng chúng ta cũng không đánh đồng các bên tham chiến. Hy vọng rồi đây cuộc nội chiến Trịnh – Nguyễn sẽ được nghiên cứu đầy đủ và kỹ lưỡng hơn, chúng ta sẽ có những đánh giá khách quan và chính xác về nó, nhưng trong điều kiện của tư liệu ngày nay, dưới cái nhìn toàn diện về xu thế đang lên của vương triều chúa Nguyễn, chúng tôi tin rằng nhận định sau đây của GS.TSKH. Vũ Minh Giang là có sức thuyết phục: “Có thể nói việc Nguyễn Phúc Nguyên tìm mọi cách tách Thuận Quảng ra khỏi sự kiểm soát của chính quyền Lê – Trịnh không phải chỉ là hành động cát cứ phong kiến đơn thuần vì lợi ích của dòng họ Nguyễn. Nó còn phản ánh một ước nguyện muốn thực thi những chính sách cai trị khác với đường lối chính trị của Đàng Ngoài lúc đó đang theo xu hướng hoài cổ rập khuôn thời Lê sơ, kìm hãm sự phát triển của xã hội. Về mặt khách quan việc làm của Phúc Nguyên có lợi cho xu thế phát triển của lịch sử dân tộc” [4].

Năm 1613 được lên ngôi Chúa thì ngay năm sau, năm 1614 Nguyễn Phúc Nguyên quyết định bãi bỏ Đô ty, Thừa ty, Hiến ty theo thiết chế quân sự của hệ thống chính quyền nhà Lê. Tại Chính dinh, ông đặt ra ty Xá sai (coi việc văn án từ tụng, do Đô tri và Ký lục giữ), Tướng thần lại (coi việc trưng thu tiền thóc, phát lương cho quân các đạo, do Cai bạ giữ) và Lệnh sử (coi việc tế tự, lễ tiết và chi cấp lương cho quân đội Chính dinh, do Nha uý giữ). Bên cạnh đó còn các ty Nội Lệnh sử kiêm coi các thứ thuế, Tả Lệnh sử và Hữu Lệnh sử chia nhau thu tiền sai dư ở hai xứ về nộp Nội phủ. Tại các dinh ở ngoài, tuỳ theo từng nơi, có nơi Nguyễn Phúc Nguyên chỉ đặt một ty Lệnh sử, nhưng cũng có nơi đặt hai ty Xá sai và Tướng thần lại, có nơi kiêm đặt hai ty Xá sai và Lệnh sử để trông coi việc từ tụng của quân dân, sổ sách đinh điền và trưng thu thuế ruộng.

Đầu năm sau, năm 1615, các quy chế mới về chức trách và quyền hạn của các phủ, huyện được ban hành. Theo quy chế này thì Tri phủ, Tri huyện giữ việc từ tụng; các thuộc viên: Đề lại, Thông lại chuyên việc tra khám, Huấn đạo, Lễ sinh chuyên việc tế tự… Năm 1620 Nguyễn Phúc Nguyên lấy lý do chúa Trịnh vô cớ gây chiến đã quyết định chấm dứt hoàn toàn việc nộp cống thuế cho chính quyền Lê – Trịnh. Năm 1630 chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã làm theo kế của Đào Duy Từ trả lại sắc của chúa Trịnh Tráng [5]. Đây không chỉ là sự khẳng định dứt khoát chính quyền chúa Nguyễn ở phía Nam là chính quyền độc lập, cắt đứt hẳn mọi quan hệ lệ thuộc với chính quyền Lê – Trịnh ở phía Bắc, mà còn đánh dấu quá trình chuyển đổi căn bản từ một chính quyền địa phương, mang nặng tính chất quân sự của nhà Lê – Trịnh sang một chính quyền dân sự của chúa Nguyễn. Đặc biệt trong quan hệ đối ngoại, chúa Nguyễn Phúc Nguyên là vị chúa Nguyễn đầu tiên tự xưng là An Nam Quốc Vương, quan hệ với các nước trong tư thế của một quốc gia độc lập có chủ quyền. GS. Kawamoto Kuniye cho rằng điều này đã “biểu lộ nhận thức quốc tế của chúa Nguyễn trước thời đại mới” [6].

Cải cách hành chính của Nguyễn Phúc Nguyên là cải cách có ý nghĩa then chốt, đặt cơ sở cho những bước tiến xa hơn và vững chắc hơn của triều đình chúa Nguyễn nói riêng và đất nước nói chung.

2. Mở rộng quan hệ giao thương với nước ngoài, thúc đẩy kinh tế hàng hoá trong nước, xây dựng Hội An thành thương cảng quốc tế phồn thịnh

Năm 1602 chúa Nguyễn Hoàng có một quyết định hết sức sáng suốt là giao cho Nguyễn Phúc Nguyên làm trấn thủ dinh Quảng Nam, một vùng “đất tốt, dân đông, sản vật giàu có” và giữ vị trí “yết hầu của miền Thuận Quảng” [7]. Bối cảnh chính trị – kinh tế thế giới và khu vực giai đoạn cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII đã tạo thêm nhiều điều kiện thuận lợi để có thể khai thác và đánh thức nguồn lực trong nước. Chúa Nguyễn Phúc Nguyên trong thực tế phải được coi là người Việt Nam đầu tiên thực sự thành công trong chiến lược mở rộng quan hệ giao thương với nước ngoài và thúc đẩy kinh tế hàng hoá và đô thị trong nước phát triển lên một trình độ mới.

Trong số các nước phương Đông, Nguyễn Phúc Nguyên đặc biệt quan tâm đến Nhật Bản. Ông không chỉ chủ động xúc tiến quan hệ giao thương với tư cách chính thức của vị đứng đầu nhà nước An Nam (An Nam Quốc Vương), tạo mọi điều kiện thuận lợi cho thương nhân đến sinh sống, buôn bán ở Hội An, mà còn cho con gái yêu quý của mình sang làm dâu một gia đình thương nhân Nhật Bản ở Nagasaki để thắt chặt hơn nữa quan hệ với giới đại thương Nhật. Người con rể của Nguyễn Phúc Nguyên là Araki Sotaro vốn thuộc dòng dõi samurai ở Kumamoto đi thuyền mang cờ hiệu của công ty Đông Ấn Hà Lan VOC đến cập cảng Hội An vào năm 1619. Theo sách Ngoại phiên thông thư (quyển 13, tr.87-88) thì cũng đúng vào năm đó chúa Nguyễn Phúc Nguyên quyết định gả con gái của mình cho nhà lái buôn Nhật Bản tài ba này. Ít lâu sau cô đã theo người chồng Nhật Bản về định cư ở Nagasaki. Cô công chúa họ Nguyễn có cuộc sống thật sự hạnh phúc, đắc ý cùng chồng, để lại nhiều dấu ấn tốt đẹp trên đất Nhật Bản [8].

Từ năm 1593 Mạc phủ Toyotomi bắt đầu thi hành chính sách Châu ấn thuyền (Shuinsen) cấp giấy phép cho thuyền buôn mở rộng quan hệ thông thương với các nước Đông Nam Á. Nguyễn Phúc Nguyên đã cho mở rộng thương cảng Hội An trở thành thương cảng chính không chỉ của Đàng Trong mà trên toàn khu vực tương đương với Việt Nam và Đông Nam Á hiện nay, đón nhiều nhất số thuyền buôn Nhật Bản được cấp giấy phép chính thức. Theo nghiên cứu của GS. Iwao Seiichi thì từ năm 1604 cho đến năm 1634 (tương đương với thời kỳ Nguyễn Phúc Nguyên được giao là Trấn thủ dinh Quảng Nam (1602) và lên ngôi Chúa (1613-1635)), Mạc phủ đã cấp 331 giấy phép đến 19 cảng thuộc khu vực Đông Nam Á (bình quân 1 cảng là 17,42 giấy phép) và 130 giấy phép đến 6 cảng thuộc khu vực tương đương với Việt Nam hiện nay (bình quân 1 cảng là 14,33 giấy phép). Riêng cảng Hội An có 86 thuyền được cấp giấy phép (chiếm 25,98% số giấy phép cấp cho toàn bộ khu vực Đông Nam Á, gấp gần 5 lần tỷ số bình quân chung cho khu vực và chiếm 66,15% số giấy phép cấp cho toàn bộ khu vực Việt Nam, gấp 6 lần tỷ số bình quân chung cho Việt Nam) [9].

Bên cạnh thuyền buôn Nhật Bản, thuyền buôn Trung Quốc, Đông Nam Á và nhất là thuyền buôn phương Tây cũng cập bến Hội An ngày một nhiều hơn và thường xuyên hơn. Giáo sĩ dòng Tên người Ý là Christoforo Borri, sống tại thị trấn N­ước Mặn (nay thuộc huyện Tuy Phư­ớc, tỉnh Bình Định) những năm 1618-1622 cho biết: “Chúa Đàng Trong [Chúa Nguyễn Phúc Nguyên] không đóng cửa trước một quốc gia nào, ngài để cho tự do và mở cửa cho tất cả người ngoại quốc, người Hà Lan cũng tới như những người khác, cùng với tàu chở rất nhiều hàng hoá của họ” [10]. Trong bối cảnh giao lưu buôn bán quốc tế tấp nập và sôi động như vậy, Hội An những thập kỷ đầu thế kỷ XVII đã đột khởi trở thành một đô thị, cảng thị quốc tế tiêu biểu ở khu vực châu Á [11].

Christoforo Borri còn bằng quan sát trực tiếp của mình trong nhiều năm liên tục đã mô tả một cách chính xác về Hội An: “Hải cảng đẹp nhất, nơi tất cả người ngoại quốc đều tới và cũng là nơi có hội chợ danh tiếng chính là hải cảng thuộc tỉnh Quảng Nam… Chúa Đàng Trong xưa kia cho người Nhật người Hoa chọn một địa điểm và nơi thuận tiện để lập một thành phố cho tiện việc buôn bán như chúng tôi đã nói. Thành phố này gọi là Faifo (Hội An), một thành phố lớn đến độ người ta có thể nói được là có hai thành phố, một phố người Hoa và một phố người Nhật. Mỗi phố có một khu vực riêng, có quan cai trị riêng, và sống theo tập tục riêng. Người Hoa có luật lệ và phong tục của người Hoa và người Nhật cũng vậy” [12]. Đây là sự phát triển trội vượt, một hiện tượng kinh tế – xã hội hết sức độc đáo chưa từng xuất hiện trước đó, cũng không thấy lặp lại ở bất cứ đô thị nào trên đất Việt Nam nhiều thế kỷ tiếp sau.

3. Vượt qua Thạch Bi Sơn gây dựng những cơ sở đầu tiên trên đất Nam Bộ, người khởi dựng hình hài lãnh thổ của nước Việt Nam hiện đại

Năm 1611 nhân vì quân Chămpa đánh ra phía bắc đèo Cù Mông (Bình Định), chúa Nguyễn Hoàng sai chủ sự là Văn Phong đem quân đánh chiếm vùng đất từ đèo Cù Mông cho đến núi Thạch Bi của Chămpa và đặt làm phủ Phú Yên, giao cho Văn Phong làm lưu thủ. Văn Phong lâu năm ở Phú Yên, kết thân với người Chăm đã dùng quân Chăm chống lại chúa Nguyễn, bị Nguyễn Phúc Nguyên cử phó tướng Nguyễn Phúc Vinh đem quân đánh dẹp, lập ra dinh Trấn Biên. Lương Văn Chính là người có công đầu trong việc chiêu tập lưu dân khai khẩn đất hoang lập ra nhiều thôn ấp của người Việt, nhanh chóng biến toàn bộ khu đất mới được tích hợp vào đất Đàng Trong thành địa bàn căn bản của chúa Nguyễn.

Không dừng lại ở khu vực Phú Yên, ngay từ đầu thế kỷ XVII, đã bắt đầu có những nhóm cư dân người Việt ở Thuận – Quảng đi thẳng vào khu vực Mô Xoài (Bà Rịa) và Đồng Nai (Biên Hoà) tiến hành khai khẩn đất hoang, lập ra những làng ngư­ời Việt đầu tiên trên vùng đất Nam Bộ.

Năm 1620, Chúa Nguyễn Phúc Nguyên cho một người con gái của mình là Công chúa Ngọc Vạn kết hôn với Quốc v­ương Chân Lạp Chey Chettha II, trở thành Hoàng hậu của vư­ơng triều Chân Lạp. Sự việc này cũng đã đư­ợc Christoforo Borri xác nhận[13]. Dư­ới sự bảo trợ của bà Hoàng hậu ngư­ời Việt của Vư­ơng triều Chey Chettha II, cư­ dân Việt từ vùng Thuận – Quảng vào sinh sống làm ăn ở lư­u vực sông Đồng Nai ngày một đông thêm. Đây chính là cơ sở thuận lợi cho Chúa Nguyễn từng bước hợp pháp hoá sự kiểm soát của mình một cách hoà bình đối với vùng đất đã đư­ợc ng­ười Việt tổ chức khai khẩn.

Năm 1623, Chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã thương lượng thành công với Quốc vương Chân Lạp Chey Chettha II, tiến hành lập hai th­ương điếm là Prei Nokor (tên gọi cũ của Sài Gòn, ở vị trí tư­ơng ứng với Chợ Lớn hiện nay) và Kas Krobey (vùng Bến Nghé xưa, ở vị trí tương ứng với Sài Gòn ngày nay) để thu thuế. Georges Maspéro trong sách Đế quốc Khmer khảo cứu kỹ biên niên sử Khmer cho biết: “Nhà Vua mới lên ngôi Chey Chettha II liền xây một cung điện ở Oudong (U Đông). Nơi đây ông long trọng cử hành lễ c­ưới một công chúa con Vua An Nam. Bà này rất đẹp. Chẳng bao lâu, bà có ảnh hư­ởng mạnh đến nhà Vua. Nhờ bà mà một sứ đoàn An Nam đã xin được Chey Chettha cho phép lập thư­ơng điếm trong miền Nam Cao Miên, ở chính nơi ngày nay là Sài Gòn” [14].

Trên đất miền Đông Nam Bộ, Sài Gòn – Bến Nghé (khu vực thành phố Hồ Chí Minh ngày nay) là đầu mối trung tâm của các tuyến đường giao thông nội địa và là cửa mở ra đại dương, nơi thu hút cao nhất sự quan tâm không chỉ của chúa Nguyễn, mà của tất cả các lớp cư dân, các thành phần dân chúng. Việc chúa Nguyễn Phúc Nguyên từ những năm đầu thập kỷ 20 thế kỷ XVII đã thiết lập các trạm thu thuế ở đây phải được coi là bước đi hết sức căn bản để cắm một cột mốc chủ quyền đầu tiên của chính quyền Đàng Trong, không chỉ ở riêng Sài Gòn – Bến Nghé mà trên toàn vùng Nam Bộ. Từ đây Sài Gòn – Bến Nghé nhanh chóng trở thành trung tâm hành chính, chính trị, kinh tế và văn hóa, quy tụ và tỏa rộng, giữ vai trò quyết định thành công của công cuộc khai phá đất đai và xác lập chủ quyền Việt Nam trên cả miền Đông và miền Tây Nam Bộ. Nguyễn Cư Trinh, nhà chiến lược phò giúp chúa Nguyễn hoàn tất quá trình mở cõi Nam Bộ hồi giữa thế kỷ XVIII đã tổng kết rất chính xác rằng: “Đời trước lập Gia Định, tất trước mở xứ Mỗi Xoài, rồi mở xứ Đồng Nai, để cho quân dân hoàn tụ, rồi mới mở xứ Sài Gòn, thế là lấy ít đánh nhiều, lấn dần như tằm ăn” [15]. Công cuộc mở cõi và định cõi Nam Bộ thế kỷ XVII-XVIII là một kỳ công tuyệt vời của lịch sử Việt Nam, mà chúa Nguyễn Phúc Nguyên không chỉ là người có công khai mở, đặt cơ sở ban đầu, mà còn hoạch định các mục tiêu, phương thức và những biện pháp cụ thể, chuẩn xác cho các đời sau tiếp nối và thành công.

4. Tổ chức đội Hoàng Sa – hình thức độc đáo, duy nhất khai chiếm, xác lập và thực thi chủ quyền trên các vùng quần đảo giữa Biển Đông

Cuốn sách xưa nhất và ghi chép khá đầy đủ và cụ thể về các đội Hoàng Sa, Bắc Hải là Phủ biên tạp lục của nhà bác học Lê Quý Đôn viết vào năm 1776 trên cơ sở sưu tầm, tập hợp tư liệu, ghi chép những điều tai nghe, mắt thấy trong 6 tháng ông làm Hiệp trấn hai xứ Thuận Hoá, Quảng Nam. Sách chép: “Phủ Quảng Ngãi ở ngoài cửa biển xã An Vĩnh huyện Bình Sơn có núi gọi là Cù Lao Ré,…; phía ngoài nữa lại có đảo Đại Trường Sa, trước kia có nhiều hải vật và những hoá vật của tàu, lập đội Hoàng Sa để lấy, đi 3 ngày 3 đêm thì mới đến, là chỗ gần xứ Bắc Hải… Trước họ Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70 suất, lấy người xã An Vĩnh sung vào, cắt phiên mỗi năm cứ tháng 2 nhận giấy sai đi, mang lương đủ ăn 6 tháng, đi bằng 5 chiếc thuyền câu nhỏ, ra biển 3 ngày 3 đêm thì đến đảo ấy. Ở đây tha hồ bắt chim bắt cá mà ăn. Lấy được hoá vật của tàu, như là gươm, ngựa, hoa bạc, tiền bạc, hòn bạc, đồ đồng, khối thiếc, khối chì, súng, ngà voi, sáp ong, đồ sứ, đồ chiên, cùng là kiếm lượm vỏ đồi mồi, vỏ hải ba, hải sâm, hột ốc vân rất nhiều. Đến kỳ tháng 8 thì về, vào cửa Eo, đến thành Phú Xuân để nộp, cân và định hạng xong, mới cho đem bán riêng các thứ ốc vân, hải ba, hải sâm, rồi lĩnh bằng trở về…

Họ Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải, không định bao nhiêu suất, hoặc người thôn Tứ Chính ở Bình Thuận, hoặc người xã Cảnh Dương, ai tình nguyện đi thì cấp giấy sai đi, miễn cho tiền sưu cùng các tiền tuần đò, cho đi thuyền câu nhỏ ra các xứ Bắc Hải, cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên tìm lượm vật của tàu và các thứ đồi mồi, hải ba, bào ngư, hải sâm, cũng sai cai đội Hoàng Sa kiêm quản. Chẳng qua là lấy các thứ hải vật, còn vàng bạc của quý ít khi lấy được” [16].

Như vậy, thông qua một hệ thống các tư liệu gốc, khách quan, xác thực, Lê Quý Đôn đã giới thiệu tương đối đầy đủ vị trí, đặc điểm tự nhiên của Hoàng Sa, Trường Sa, cũng như cơ cấu tổ chức, chức năng và hoạt động của hai đội Hoàng Sa, Bắc Hải.

Bộ sách được hoàn thành chỉ sau Phủ biên tạp lục một thời gian ngắn là Đại Việt sử ký tục biên [17]. Đại Việt sử ký tục biên (1676-1789) là bộ chính sử do Quốc sử viện thời Lê Trịnh tổ chức biên soạn, nối tiếp vào quyển XIX sách Đại Việt sử ký toàn thư, trong đó đoạn ghi chép về Hoàng Sa, Trường Sa trên căn bản không khác ghi chép của Lê Quý Đôn. Đại Nam thực lục Tiền biên là phần đầu bộ chính sử của triều Nguyễn được khởi soạn năm 1821, hoàn thành và khắc in năm 1844, nhân nói đến sự kiện tháng 7 năm 1754 “dân đội Hoàng Sa ở Quảng Ngãi đi thuyền ra đảo Hoàng Sa, gặp gió dạt vào hải phận Quỳnh Châu nước Thanh. Tổng đốc Thanh hậu cấp cho rồi cho đưa về. Chúa [Nguyễn Phúc Khoát] sai viết thư [cám ơn]” [18] đã mô tả Vạn Lý Trường Sa và các đội Hoàng Sa, Bắc Hải được tổ chức từ thời “quốc sơ” (tức là từ thời các chúa Nguyễn đầu tiên) không có gì khác với Phủ Biên tạp lục Đại Việt sử ký tục biên.  

Toản tập An Nam lộ của Đỗ Bá Công Đạo người xã Bích Triều, huyện Thanh Chương tỉnh Nghệ An soạn năm Chính Hoà thứ 7 (1686), phần bản đồ phủ Thăng Hoa và phủ Quảng Ngãi phía ngoài biển có vẽ Bãi Cát Vàng và ghi chú rõ: “Mỗi năm đến tháng cuối đông [chúa Nguyễn] đưa 18 chiếc thuyền đến đó [Bãi Cát Vàng] nhặt vàng bạc” [19]. Khoảng một thập kỷ sau, vị Hoà thượng Trung Quốc nổi tiếng trụ trì ở chùa Trường Thọ, tỉnh Quảng Đông là Thích Đại Sán sang Đàng Trong trên đường trở về Trung Quốc đã mô tả khá chi tiết về bãi cát Vạn Lý Trường Sa và cho biết: “Các Quốc vương [tức các chúa Nguyễn] thời trước hàng năm sai thuyền đánh cá đi dọc theo các bãi cát, lượm vàng bạc khí cụ của các thuyền hư hỏng dạt vào” [20]. Năm 1701, nghĩa là chỉ 15 năm sau bản đồ Đỗ Bá và 4-5 năm sau Hải ngoại kỷ sự của Thích Đại Sán, các giáo sĩ người Pháp trên tầu Amphitrite khẳng định: “Paracel là một quần đảo thuộc về vương quốc An Nam” [21].

Như thế các tư liệu đương đại của cả Việt Nam, Trung Quốc và phương Tây đều chép rất cụ thể, rõ ràng và thống nhất về sự hiện diện của đội Hoàng Sa vào thời kỳ đầu (“buổi quốc sơ”) của các chúa Nguyễn trong thế kỷ XVII. Vấn đề đặt ra là vào thời điểm cụ thể nào và vị chúa Nguyễn nào là người đầu tiên tổ chức ra đội Hoàng Sa?

Tại nhà thờ họ Võ, phường An Vĩnh (thôn Tây xã Lý Vĩnh, huyện Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi) còn giữ được tờ đơn đề ngày 15 tháng Giêng năm Cảnh Hưng thứ 36 (1775) do Hà Liễu là Cai hợp phường Cù Lao Ré xã An Vĩnh đứng tên xin chấn chỉnh lại đội Hoàng Sa. Đơn cho biết: “Nguyên xã chúng tôi xưa có hai đội Hoàng Sa và Quế Hương. Vào năm Tân Mùi (1631), Đốc chiến là Võ Hệ đã đệ đơn xin tâu được lập hai đội nữa là đội Đại Mạo Hải Ba và đội Quế Hương Hàm với số đinh 30 người…”.

Đối chiếu tư liệu này với nguồn tư liệu phương Tây đương đại, chúng tôi có thêm những thông tin để xác định thời điểm ra đời của đội Hoàng Sa.

Năm 1633, phái bộ thương gia Hà Lan do Paulus Traudenius dẫn đầu đã đến vịnh Đà Nẵng và đến 1636, người Hà Lan đã được phép mở một thương điếm ở Faifoo (Hội An), dưới quyền điều hành của Abraham Duijcker. Ngày 6 tháng 3 hai tàu Hà Lan là Warmont và Grol đi từ Nhật Bản đã đến Đà Nẵng, được chính quyền Đàng Trong tiếp đón. Ở Hội An chúa Nguyễn Phúc Lan cũng đã tiếp Abraham Duijcker. Trong cuộc tiếp kiến này “Duijcker đã chuyển đến Chúa một điều khiếu nại. Đó là việc chiếc tàu mang tên Grootenbroeck đã bị đắm ở ngoài khơi bãi cát Paracels, đoàn thuỷ thủ đã được các người Việt xứ Đàng Trong cứu giúp, nhưng đồng thời cũng lấy đi tổng số món tiền là 25.580 réaux, vậy nên trưởng điếm Duijcker có nhiệm vụ xin được bồi hoàn món tiền đó. Ông ta được trả lời rằng những việc đó đã được xảy ra từ thời chúa trước (tức chúa Nguyễn Phúc Nguyên), không nên đề cập đến nữa, ngược lại, người Hà Lan từ nay sẽ được hoàn toàn tự do mang hàng hoá đến buôn bán, được miễn thuế, vả lại, sau này nếu có tàu Hà Lan mà bị đắm ở ngoài khơi thì sẽ không có chuyện tịch thu hàng hoá được cứu hộ nữa” [22].

Tư liệu chung quanh vụ đắm tàu Grootenbroeck ở Hoàng Sa năm 1634 xác nhận vai trò của những đoàn người Việt xứ Đàng Trong ở quần đảo Hoàng Sa làm công tác cứu hộ, rồi đưa các nạn nhân về vùng Quảng Nam. Họ thường xuyên đi thuyền ra Hoàng Sa kiểm soát vùng biển và đảo. Chúng ta có đủ cơ sở để tin rằng lực lượng người Việt xứ Đàng Trong cứu tầu Grootenbreock tại Hoàng Sa năm 1634 chính là những người của đội Hoàng Sa đảo Lý Sơn (được thành lập trước năm Tân Mùi (1631) qua phản ánh của tờ đơn xin chấn chỉnh lại đội Hoàng Sa lưu tại nhà thờ họ Võ phường An Vĩnh).

Chúa Nguyễn Hoàng vào nam dựng nghiệp giữa lúc nhu cầu chiếm lĩnh các quần đảo giữa Biển Đông đặt ra gay gắt và bức thiết. Được thừa hưởng những cơ sở và kinh nghiệm của người Chăm và vương quốc Chămpa trước đây, Nguyễn Hoàng đã sớm chăm lo xây dựng các đội thuyền, mở cửa buôn bán với nước ngoài để phát huy sức mạnh trong nước và chuẩn bị những bước đi đầu tiên cho việc chiếm lĩnh các quần đảo giữa Biển Đông, nhưng chưa thấy có tư liệu nào khả dĩ cho hay vào thời kỳ Nguyễn Hoàng (1558-1613) đã có đội Hoàng Sa. Công việc thực thi chủ quyền ở khu vực hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa theo chúng tôi, chỉ thật sự bắt đầu khi chúa Nguyễn Phúc Nguyên lên nắm quyền. Các sự kiện có liên quan đến hoạt động của đội Hoàng Sa xảy ra vào các năm 1634, 1631 hay trước 1631 một ít năm, thì cũng đều nằm trong thời kỳ chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635). Có đủ cơ sở để khẳng định đội Hoàng Sa xuất hiện lần đầu tiên vào thời kỳ chúa Nguyễn Phúc Nguyên hay chúa Nguyễn Phúc Nguyên chính là người đã sáng tạo ra một hình thức khai chiếm, xác lập và thực thi chủ quyền trên các vùng quần đảo giữa Biển Đông hết sức độc đáo là đội Hoàng Sa. Chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa và Trường Sa là một trong những trang đẹp nhất, bi hùng nhất của lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam ta, mà chúa Nguyễn Phúc Nguyên là vị chúa có công mở đầu và khai sáng.
 
*
*       *
Nguyễn Phúc Nguyên ngay từ nhỏ đã nổi tiếng là người thông minh, dũng lược. Năm 22 tuổi là tướng chỉ huy một đội thuỷ quân đánh thắng 5 chiếc tầu của ngoại bang đến cướp phá ở vùng Cửa Việt, được khen là bậc “anh kiệt”. Năm 40 tuổi được giao làm Trấn thủ Quảng Nam, ông đã mở rộng giao lưu buôn bán với các nước phương Đông và phương Tây (đặc biệt là Nhật Bản), xây dựng Hội An thành cảng thị quốc tế phồn thịnh – mà ngày nay đã được công nhận là Di sản Văn hoá Thế giới. Năm 51 tuổi, trở thành người đứng đầu chính quyền Chúa Nguyễn, ông đã cải cách nền hành chính, phát triển đất nước về mọi mặt, mở mang lãnh thổ xuống tận khu vực Mô Xoài, Đồng Nai, Sài Gòn, Bến Nghé… thuộc miền Đông Nam Bộ – khởi dựng hình hài lãnh thổ Tổ quốc Việt Nam hiện nay. Ông là người đầu tiên đặt ra đội Hoàng Sa đặc trách công việc khai thác và bảo vệ Biển Đông từ tuyến ngoài – một hình thức độc đáo của quá trình khai chiếm, xác lập và thực thi chủ quyền trên các vùng quần đảo giữa Biển Đông. Dưới quan điểm sử học mới, càng ngày chúng ta càng nhận ra rõ hơn, đầy đủ và chân xác hơn bức chân dung toàn hảo của ông – một vị Chúa Nguyễn kiệt xuất nhất trong lịch sử dân tộc, người Anh hùng đứng ở vị trí hàng đầu của những Anh hùng Mở cõi Việt Nam.

[1] Lê Quý Đôn, Toàn tập (Phủ Biên tạp  lục), T1, Bản dịch Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1977, tr.50.
[2] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, T1, Bản dịch Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2002, tr.38.
[3] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, T.1, Bản dịch đã dẫn, tr.37.
[4] Vũ Minh Giang, Đào Duy Từ đã chọn Nguyễn Phúc Nguyên để phò giúp, trong Đào Duy Từ (1572-1634) Thân thế và sự nghiệp, Thanh Hoá, 1993, tr.153.
[5] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, T.1, Bản dịch đã dẫn, tr.45-46.
[6] GS. Kawamoto Kunye, Nhận thức quốc tế của chúa Nguyễn ở Quảng Nam trong Đô thị cổ Hội An, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1991, tr.178. Trong bài viết này tác giả đã căn cứ theo sách Ngoại phiên thông thư xác định đời chúa Nguyễn Hoàng còn ghi hiệu mỗi lần khác nhau, không thống nhất, nhưng từ đời chúa Nguyễn Phúc Nguyên trở đi đều tự xưng là An Nam Quốc Vương để phát triển hệ thống ngoại giao với các nước, trong đó có Nhật Bản.
[7] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, T.1, Bản dịch đã dẫn, tr.35-36.
[8] Tham khảo Nguyễn Quang Ngọc, Về quan hệ giao thương Nhật – Việt đầu thế kỷ XVII qua cảng Nagasaki trong Kỷ yếu Nghiên cứu Văn hoá quốc tế của Đại học nữ Chiêu Hoà số 9, năm 2003, tr.111-115. Tại Nagasaki đến nay vẫn còn dấu tích khu nhà ở, di tích mộ vợ chồng Araki, bia đá, gương đồng (là của hồi môn của Công chúa), phong tục cúng giỗ và nhất là lễ hội rước Công chúa hàng năm vẫn được tổ chức vào mùa thu tại khu Motoshikkui.
[9] Giấy phép Mạc phủ chính thức cấp cho thuyền buôn ra nước ngoài buôn bán được gọi là Shuinijo. Tham khảo thêm Vũ Minh Giang, Người Nhật, phố Nhật và di tích Nhật Bản ở Hội An trong Đô thị cổ Hội An, sđd, tr.206-207.
[10] Christoforo Borri, Xứ Đàng Trong năm 1621, Bản dịch Nxb. thành phố Hồ Chí Minh, 1998, tr.92.
[11] Ngày 4 tháng 12 năm 1999 UNESCO đã ghi Đô thị cổ Hội An vào danh sách Di sản văn hoá Thế giới vì “Hội An là biểu hiện vật thể nổi bật của sự kết hợp các nền văn hoá qua các thời kỳ trong một thương cảng quốc tế” (tiêu chí 2) và “Hội An là điển hình tiêu biểu về một cảng thị châu Á truyền thống được bảo tồn một cách hoàn hảo” (tiêu chí 5). Tất cả những đặc điểm nổi bật này của cảng thị Hội An đều được khẳng định một cách tuyệt đối trong thời kỳ trị vì của chúa Nguyễn Phúc Nguyên. 
[12]  Christoforo Borri, Xứ Đàng Trong năm 1621, Bản dịch đã dẫn, tr.91-92.
[13] Christoforo Borri, Cochin – China, London, 1633, Da Capo press. Theatrem Orbis Ltd Amsterdam, New York, 1970, Chap.VII, p.H.4. Tác giả còn cho biết rõ Quốc v­ương Chân Lạp, người kết hôn với con gái Chúa Nguyễn (Phúc Nguyên) đã xin Chúa viện trợ khí tài và quân đội để chống Xiêm.
[14] G. Maspéro, L’empire Khmer, Phnom Penh, 1904, p.61.
[15] Lê Quý Đôn, Toàn tập (Phủ Biên tạp  lục), T.1, Bản dịch Nxb. KHXH, Hà Nội, 1977, tr.124.
[16] Lê Quý Đôn, Toàn tập (Phủ Biên tạp  lục), T.1, Bản dịch đã dẫn, tr.116.
[17] Đại Việt sử ký tục biên (1676-1789), Bản dịch Nxb. KHXH, Hà Nội, 1991, tr.243-244.
[18] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục, T.1, Bản dịch đã dẫn, tr.164.
[19] Phần chú bằng chữ Nôm Toản tập An Nam lộ trong Thiên hạ bản đồ lưu tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A.2628.
[20] Thích Đại Sán, Hải ngoại kỷ sự, Viện Đại học Huế, tr.125.
[21] Jean.Yves Clayes, Journal de Voyage aux Paracels (Indochine No 45, 1941, tr.7).
[22] Ch.B.Maybon, Les marchands europe’ens are Cochinchine et au Tonkin (1660-1775), (Revue Indochinoise 1916).
 
GS.TS. Nguyễn Quang Ngọc
Nguồn
: Khoa Lịch sử, Một chặng đường nghiên cứu khoa học (2006-2011), Nxb Thế giới, Hà Nội, 2011, tr. 447-460.
Theo Website Khoa Lịch sử, khoalichsu.ussh.vnu.edu.vn, 03-10-2013.

Tổng số điểm của bài viết là: 5 trong 1 đánh giá

Xếp hạng: 5 - 1 phiếu bầu
Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

_KLS_ TuyensinhSDH
facebook youtube
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây