Tổ hợp hiện vật
Tổ hợp hiện vật của thời kỳ sớm này phản ánh những quan hệ và tương tác văn hóa, kinh tế và chính trị sôi động, mạnh mẽ với bên ngoài, đặc biệt với thế giới Trung Hoa.
So sánh hai tổ hợp hiện vật Sa Huỳnh và Champa có thể thấy những thay đổi về chất.
Đồ gốm
So với đồ gốm Sa Huỳnh (chủ yếu có nguồn gốc từ các khu mộ), đồ gốm trong các địa điểm Champa đơn giản hơn nhiều về trang trí, nhưng đa dạng và tiến bộ hơn về chất liệu và kỹ thuật chế tác [14]. Từ thế kỷ 1 SCN, một kỹ thuật sản xuất gốm mới xuất hiện ở miền Trung Việt Nam với loại chất liệu đất sét khai thác ở độ sâu từ 2-3m, đất được tuyển lọc kỹ và tinh, độ nung vừa phải đến cao, xuất hiện một số loại hình gốm mới như bình hình trứng, cốc chân cao đặc, đĩa đèn, bình – ấm kendi và ngói in dấu vải …
Trong thời kỳ thiên niên kỷ I SCN có ít nhất ba nhóm gốm chính với những khác biệt trong xương, xử lý bề mặt, kỹ thuật tạo dáng, phong cách và chức năng [15].
1. Nhóm thứ nhất gồm chủ yếu loại hình gốm gia dụng, sản xuất tại địa phương và độ nung thấp. Nhóm gốm này kế thừa một số đặc điểm (kỹ thuật xử lý chất liệu, tạo hình, xử lý bề mặt, nung và loại hình) từ gốm Sa Huỳnh trước đó.
2. Nhóm thứ hai gồm những đồ gốm sản xuất tại chỗ nhưng chịu ảnh hưởng ít hay nhiều kỹ thuật làm gốm từ phía Bắc (có thể Bắc Việt Nam hay Trung Quốc). Một số loại hình gốm có nguồn gốc từ phía Tây.
3. Nhóm thứ ba là nhóm của đồ gốm Hán cứng, văn in, có men hay không men và một số đồ gốm nhập từ phía Tây. Những đồ gốm loại này ở các địa điểm thường được phát hiện ở tầng sớm và tầng giữa như đã xác định ở trên.
Đồ trang sức
Hạt chuỗi thủy tinh dạng Indo-pacific vẫn tiếp tục được sản xuất và lưu hành rộng rãi. Trang sức, trang trí bằng bạc, vàng trở nên phổ biến, nhưng đồ bằng mã não, agate và ngọc ít hơn rất nhiều; loại khuyên tai hai đầu thú và ba mấu – biểu tượng của văn hóa Sa Huỳnh biến mất hoàn toàn.
Hiện vật khác
Chúng ta không có nhiều thông tin từ các địa điểm khảo cổ liên quan đến sự tiến hóa của đồ bằng kim loại hay bằng đá ở giai đoạn Champa; chỉ ở một số sưu tập tư nhân ta có thể nhận biết những thay đổi rõ rệt trong việc sản xuất và sử dụng của loại hiện vật này.
Những thay đổi
So với giai đoạn văn hóa Sa Huỳnh trước đó, sưu tập hiện vật Champa sớm và Champa phản ánh những thay đổi quan trọng trong chất liệu, kỹ thuật sản xuất và loại hình, có hai nhóm nguyên nhân chính dẫn đến những chuyển đổi này.
Một mặt, khi chúng ta nhấn mạnh quá trình văn hóa liên tục, đặc biệt trong một số khía cạnh đời sống vật chất như làm gốm, phương thức kiếm sống… thì mặt khác chúng ta không thể bỏ qua những thay đổi văn hóa vừa có tính chất dần dần vừa có tính chất đột biến trong suốt thời gian trên dưới gần một thiên niên kỷ, từ những thay đổi vừa lượng vừa chất này, những cấu trúc xã hội mới xuất hiện cùng với những chức năng của chúng đã làm nảy sinh những dạng thức cư trú sinh hoạt cá nhân, cộng đồng (di tích) và đồ dùng (di vật) mới.
Những chức năng xã hội mới này đã tạo ra cơ hội và khả năng để phát triển cả cách thức tổ chức sản xuất lẫn cách phân phối sản phẩm cả về chất lẫn lượng, những thay đổi này cũng ảnh hưởng đến việc chọn lựa sản phẩm nhập khẩu. Những thay đổi xuất hiện trong các sưu tập hiện vật và cấu trúc di tích cho phép chúng ta nhận diện những xu hướng và ưu tiên trong các cách các cộng đồng dân cư tiếp xúc và tương tác với thế giới bên ngoài suốt một thời gian dài.
Bản chất của các tiếp xúc và tương tác
Trong thời kỳ sớm, mối quan hệ với Trung Hoa Hán đóng vai trò quan trọng đối với sự hình thành của cấu trúc xã hội mới, ảnh hưởng từ Trung Hoa bắt đầu từ giai đoạn Sa Huỳnh [16] và tăng cường vào đầu thiên niên kỷ I SCN; sự tăng cường này do nhiều nguyên nhân gây ra và trong đó yếu tố chính trị là đáng kể nhất [17]. Thời kỳ này chúng ta cũng không thể không lưu ý tới sự tiếp xúc với Ấn Độ, nhưng có lẽ những quan hệ với Ấn Độ không mạnh mẽ như với Trung Hoa. Ngoài ra văn hóa vật chất thời kỳ này cũng phản ánh một số đặc điểm kế thừa từ văn hóa Sa Huỳnh trước đó.
Thời kỳ tiếp sau đó có nhiều chứng cứ về sự tăng cường tính phức tạp trong các mối quan hệ với thế giới bên ngoài so với thời kỳ trước, đặc biệt cần lưu ý đến tính mạnh mẽ của tiếp xúc và tiếp biến văn hóa với Ấn Độ, Đông Nam Á hải đảo. Tất cả những nhân tố của cả hai thời kỳ diễn biến và tiếp xúc văn hóa trong ngoài đều đưa tới những thay đổi đáng kể trong các khía cạnh khác nhau trong những cộng đồng dân cư thời kỳ Champa sớm.
4. Hoa hóa và Ấn hóa khu vực và tác động của những yếu tố bản địa lên quá trình hình thành những nhà nước sớm ở miền Trung Việt Nam
Một vài ý kiến về Hoa hóa, Ấn hóa và tác động xã hội
Các nhà nghiên cứu đưa ra ba nhóm ý kiến về cái gọi là quá trình Ấn hóa (và Hoa hóa) trải dài một thiên niên kỷ bắt đầu từ đầu Công nguyên khi mà những vị tu hành của Hindu giáo, Phật giáo, học giả, nhà chính trị, nghệ nhân và thương nhân đã đồng thời mang tới cho những xã hội Đông Nam Á bản địa những hàng hóa, ý tưởng từ quê hương của họ ở Nam Á, Đông Á… Đó là:
i. Quyền chủ động của Đông Nam Á
ii. Lý thuyết về thực dân hóa
iii. Cùng trao đổi, chia sẻ ý tưởng trong quá trình tiến hóa của quản lý nhà nước ở Đông Nam Á
Rõ ràng là tất cả những nhà nước sớm này đều dựa trên quan điểm Hindu giáo về vương quyền nhưng chưa bao giờ chúng là thuộc địa của Ấn Độ. Những nhà nghiên cứu Việt Nam từ trước tới nay đều thiên về quan điểm thứ ba và xu hướng này có cơ sở dữ liệu vững chắc. Các nhà nghiên cứu cho rằng việc buôn bán trao đổi với Trung Hoa và Ấn Độ có vai trò quan trọng nhưng không bao giờ là “nguyên nhân” quyết định trong sự hình thành nhà nước sớm và như vậy quyền lực nhà nước – một điều kiện quan trọng cũng không phải là kết quả của buôn bán phát đạt với thế giới bên ngoài.
Chúng tôi cũng chia sẻ quan điểm rằng sự có mặt của sản phẩm văn hóa và sản phẩm hàng hóa từ Trung Hoa và Ấn Độ phản ánh hoạt động buôn bán Ấn Độ, Trung Hoa đã hội nhập vào hạ tầng cơ sở có sẵn của mạng lưới Đông Nam Á. Rõ ràng những giai đoạn phát triển sớm hơn ở những vùng khác nhau của Đông Nam Á cung cấp chứng cứ về quá trình bản địa của mở rộng buôn bán và tăng cường mức phân hóa xã hội [18].
Hiển nhiên chúng ta còn lâu mới giải quyết được một cách thấu đáo những vấn đề liên quan đến quyền lực nhà nước ở Đông Nam Á. Mặc dù vậy, có lẽ cần phải đặt những nghiên cứu của mình tới đây không chỉ dựa trên những chứng cứ vật chất vì “Cư dân Đông Nam Á thời Tiền – Sơ sử đã để lại hơn nhiều so với những vết tích của lối sống xưa mà chúng ta đã biết, dù lối sống của họ không phải đã được nhận diện ở mọi nơi. Văn hóa của họ không chỉ được rọi qua những hiện vật chôn trong các mộ táng hay chứng cứ Trung Hoa về trao đổi thương mại thời sơ sử. Công cụ và buôn bán chỉ là một phần của hệ thống xã hội” [19].
Những hiện vật khảo cổ sớm nhất từ Trung Hoa và Ấn Độ ở Miền Trung Việt Nam
Theo các nhà nghiên cứu, hiện vật ngoại sinh có thể được chia thành ba nhóm [20]:
i. Nhóm hiện vật nhập trực tiếp từ bên ngoài;
ii. Những hiện vật sản xuất theo kỹ thuật ngoại và
iii. Những hiện vật sản xuất tại địa phương bắt chước hình dáng hiện vật nhập ngoại.
Những hiện vật làm theo đơn đặt hàng ở bên ngoài có thể được xếp vào nhóm thứ nhất. Ngoài ra còn có những hiện vật sản xuất tại địa phương nhưng do thợ bên ngoài làm theo kỹ thuật từ bên ngoài theo nhu cầu của xã hội bản địa [21].
Tuy vậy, đối với những mặt hàng Hán, Ấn hay kiểu Hán, Ấn với tình trạng nghiên cứu hiện nay thì khó mà thấy được một cách rõ ràng từng nhóm hiện vật này trong văn hoá Sa Huỳnh.
Hiện vật có nguồn gốc Tây Hán hậu kỳ và Đông Hán sơ kỳ trong văn hóa Sa Huỳnh được phát hiện phần lớn trong các địa điểm có niên đại muộn. Một số đồ đồng như đỉnh, bát, đĩa, ấm… được xem là những hiện vật thể hiện rõ rệt tính chất status (địa vị, thân thế), đây là những “Status goods” hay “Status markers”. Nhìn chung, những tiếp xúc và trao đổi giai đoạn này chủ yếu dựa trên nền tảng kinh tế và bản chất của các quan hệ là đa chiều và bình đẳng.
Nhưng trong các địa điểm Champa sớm, di vật có nguồn gốc từ phía Bắc (bao gồm Trung Hoa và Bắc Việt Nam) chủ yếu liên quan đến kỹ thuật xây dựng, thành lũy, sản xuất đồ gốm… Như vậy, mối quan hệ với Trung Hoa Hán có vai trò quyết định trong việc thiết lập những cấu trúc xã hội mới và những tác động từ Trung Hoa ngay từ thời Sa Huỳnh được tăng cường mạnh mẽ hơn vào đầu thiên niên kỷ I SCN. Mối quan hệ, tiếp xúc với thế giới bên ngoài gia tăng trên nhiều lĩnh vực và do nhiều nguyên nhân từ văn hóa, chính trị đến kinh tế…
Trong các địa điểm thời đại Sắt sớm ở Thái Lan, Việt Nam, Myanmar đã tìm thấy một khối lượng lớn các hạt chuỗi mã não và cacnelian có nguồn gốc Ấn Độ, trong số đó có những dạng hạt chuỗi đặc biệt tạo hình con vật (sư tử, hổ, chim, rùa…) và hạt chuỗi khắc axit. Ở Lai Nghi (Quảng Nam), Cồn Dàng (Huế), Hòa Diêm (Khánh Hòa), Giồng Cá Vồ (TP. Hồ Chí Minh)… hạt chuỗi khắc axit tìm thấy trong một số mộ chum. Hai hạt chuỗi hình con vật (hổ và chim) đã được phát hiện trong hai lần khai quật Lai Nghi. Hạt chuỗi cacnelian hình hổ và sư tử được xác định là dấu hiệu Sakyasimha (Sư tử của Dòng Sakya) của Đức Phật, và rất có thể hạt chuỗi hình sư tử ở Thái Lan cũng như những hạt khác đồng dạng (hổ, chim hay hươu) ở Việt Nam, Thái Lan, Myanmar là những hình tượng sớm của Đức Phật và như thế đây là những bằng chứng về tư tưởng và giá trị Phật giáo sớm nhất ở Đông Nam Á [22].
Đồ gốm nhập từ Nam Á cũng được tìm thấy ở miền Trung Việt Nam và có niên đại khá sớm. Một số mảnh gốm thương mại Nam Ấn được phát hiện ở Trà Kiệu lớp sớm, Gò Cấm [23], Hòa Diêm [24].
V. Một số nhận xét
Như vậy, nhờ quá trình tiếp biến văn hóa nhanh, mạnh, cư dân Đông Nam Á thuộc nhiều nhóm ngôn ngữ – tộc người đã tiếp nhận những yếu tố văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ, dung hóa chúng và thích ứng với chúng trên cơ sở thỏa mãn những yêu cầu cơ bản của mình. Những nghiên cứu từ nhiều góc độ đã chứng tỏ sự tích hợp của văn hóa Ấn Độ vào Đông Nam Á không phải là kết quả của áp lực chính trị hay khai thác kinh tế mà thực tế đây là kết quả của quá trình diễn biến hòa bình và sự hợp tác nhiều chiều.
Một cách khái quát, trên cơ sở so sánh tư liệu khảo cổ và thư tịch cổ trong bối cảnh lịch sử – văn hóa khu vực, chúng tôi thử đưa ra chuỗi diễn biến văn hóa giai đoạn từ thế kỷ 5 TCN đến thế kỷ 5 SCN ở miền Trung Việt Nam:
i. Thời kỳ Sơ sử – Văn hóa Sa Huỳnh: Nền văn hóa này trên đại thể đã kết thúc vào đầu thế kỷ 2 SCN, nhưng ở một số vùng, đặc biệt vùng Nam Sa Huỳnh, những truyền thống kiểu Sa Huỳnh kéo dài đến thế kỷ 2, 3 SCN với một số biến chuyển trong táng thức và đồ tùy táng.
ii. Thời kỳ từ cuối thế kỷ 1 SCN đến cuối thế kỷ 2 đầu thế kỷ 3 SCN: Giai đoạn Chăm cổ hay Champa sớm đặc trưng bởi những tương tác văn hóa nhiều chiều nội vùng và với thế giới bên ngoài, đặc biệt có vai trò quan trọng và mạnh mẽ nhất là tiếp xúc, tương tác miền Trung Việt Nam với thế giới Trung Hoa. Những mối quan hệ này bắt đầu từ văn hóa Sa Huỳnh và tăng cường trong thời kỳ Đông Hán. Thư tịch cổ cho biết, không gian văn hóa Sa Huỳnh trùng với phạm vi quận Nhật Nam thời kỳ Đông Hán. Chúng ta dễ dàng nhận thấy những chuyển biến văn hóa, đặc biệt là sự thay đổi hoàn toàn trong táng thức và tang lễ (nhưng hỏa thiêu như là một cách xử lý thi thể vẫn tiếp tục tồn tại). Táng thức mộ chum và những yếu tố văn hóa vật thể, phi vật thể liên quan không còn nữa và thay vào đó là những dạng thức chôn cất mới của những cấu trúc văn hóa xã hội mới. Một số nhà nghiên cứu gọi thời kỳ này là thời kỳ Tiền Lâm Ấp.
iii. Thời kỳ đầu thế kỷ 3 SCN – Nhà nước Lâm Ấp và những nhà nước đồng dạng: Thời kỳ của quá trình sôi động hình thành các chính thể. Xuất hiện những thành lũy Champa sớm. Những dữ liệu khảo cổ học từ Thành Hồ, Cổ Lũy – Phú Thọ, Trà Kiệu… một mặt chứng minh quá trình tụ cư của các nhóm cư dân ở những vị trí ngã ba sông, cửa sông cận biển từ thế kỷ 1, 2 SCN và sự tăng nhanh tính phức hợp xã hội – nền tảng cho sự hình thành trung tâm chính trị – kinh tế – văn hóa từ sau thế kỷ 3 [25], trong khía cạnh văn hóa vật chất của những trung tâm này có khá nhiều yếu tố Trung Hoa Hán nhưng đã được bản địa hóa mạnh.
iv. Từ thế kỷ 5 trở về sau, tên gọi Champa xuất hiện: Giữa những thời kỳ kể trên vẫn có những khoảng lặng, trống về cả thời gian và tính chất văn hóa chưa thể lấp đầy, đặc biệt là trong thời kỳ chuyển biến từ Sa Huỳnh đến Champa sớm (hay còn gọi là thời kỳ Tiền Lâm Ấp – cuối thế kỷ 1 TCN đến giữa thế kỷ 2 SCN). Trong một số trường hợp những diễn giải thư tịch cổ không khớp với tài liệu khảo cổ. Cần phải nhấn mạnh rằng, từ góc độ khảo cổ học sự khác biệt trong di tích và di vật giữa các tiểu thời kỳ của thời kỳ từ thế kỷ 1 đến thế kỷ 5 SCN nhỏ hơn rất nhiều so với những khác biệt giữa thời kỳ này với thời kỳ văn hóa Sa Huỳnh trước đó.
Chúng tôi hướng về ý tưởng Lâm Ấp và những chính thể kiểu Lâm Ấp ở miền Trung Việt Nam từ thế kỷ 1 SCN đã được thành lập trên cơ sở bản địa (những bình tuyến văn hóa Sơ kỳ sắt) nhưng dưới tác động mạnh của Trung Hoa (Hán) (trên thực tế, sự hình thành của những nhà nước sớm này phản ánh sự đối kháng của những cộng đồng cư dân bản địa đối với sự thống trị của nhà Hán) [26]. Tác động và ảnh hưởng của văn minh Ấn Độ mặc dù đã hiện diện từ khá sớm nhưng thật sự tăng cường chỉ từ sau thế kỷ 3 và Champa như là hệ quả của tất cả những quá trình này xuất hiện trên vũ đài chính trị khu vực từ sau thế kỷ 5. Tài liệu khảo cổ học không cho thấy có những thay đổi đột ngột hay sự thay thế của Lâm Ấp bằng Champa mà ngược lại, có những bằng chứng hiển nhiên và rõ ràng về những tiếp nối trong văn hóa vật chất (và cả tinh thần) giữa hai giai đoạn. Có thể nhận thấy điều này trong cả tổ hợp hiện vật lẫn loại hình di tích.
Tài liệu tham khảo
1. Diệp Đình Hoa,
Những con đường khám phá, Nxb. KHXH, Hà Nội, 2003.
2.Hà Văn Tấn,
Theo dấu văn hóa cổ, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1997.
3.Higham Ch.,
The Archaeology of Mainland Southeast Asia. Cambridge University Press, Cambridge, 1989.
4.Stark Miriam T.,
The Transition to History in the Mekong Delta: A View from Cambodia, International Journal of Historical Archaeology, Vol.2, No.3, 1998, 175-203.
5.http:www.seacrchc.org/media/pdfiles/ChamBook.pdf.
6.Stark. M và Sovath. B,
Recent Research on the Emergence of Early Historic States in Cambodia’s Lower Mekong Delta, Bulletin of the Indo-Pacific Prehistory Association, 21(5), 2001, 85-98.
7.J.Wisseman Christie,
State Formation in the Early Maritime Southeast Asia: A Consideration of the Theories and the Data, Bijdragen tot de Taal-, land-en Volkenkunde 151 (1995), no:2, Leiden.
8.Wolters. O. W, History,
Culture, and Region in Southeast Asian Perspectives, Revised Edition, SEAP, Cornell Southeast Asian Program Publications, 2004.
9.Kipp R.S., and Schortman E. M.,
The Political Impact of Trade in Chiefdoms, American Anthropologist, 1989, 91-2.
10.Bronson Bennet,
Exchange at the Upstream and Downstream Ends: Notes towards a Functional Model of the Coastal States in SEA. In Hutterer K.C., (ed.), Economic Exchange and Social Interactions in SEA, Papers on Michigan South and Southeast Asia, Số 13. Ann Arbor, 1977, 39-52.
11.Lâm Thị Mỹ Dung,
Nghiên cứu quá trình chuyển biến từ sơ sử sang sơ kỳ lịch sử ở miền Trung Trung bộ và Nam Trung bộ Việt Nam, Đề tài NCKH trọng điểm, ĐHQG, mã số QGTĐ.06.07, 2008, Tư liệu khoa Lịch sử và Tư liệu Bảo tàng Nhân học, trường ĐHKHXH & NV, Hà Nội.
12.Nguyễn Kim Dung,
Di chỉ Gò Cấm và Trà Kiệu trong quá trình chuyển biến sơ sử – sơ kỳ lịch sử ở miền Trung Việt Nam. Bài tham dự Hội thảo khoa học của Đề tài QGTĐ, mã số QGTĐ. 06.07 Hà Nội tháng 11 năm 2007.
13.Lâm Thị Mỹ Dung,
Đồ gốm trong những địa điểm khảo cổ học Champa ở miền Trung Việt Nam, Khảo cổ học, số 1, Hà Nội, 2005, tr.50-70.
14.Lam Thi My Dzung,
Sa Huynh Regional and Inter-Regional Interactions in the Thu Bon Valley, Quang Nam Province, Central Vietnam, Bulletin of the Indo-Pacific Prehistory Association 29, 2009, 68-75.
15.Lâm Thị Mỹ Dung,
Một số ý kiến xung quanh vấn đề giao lưu và tiếp biến trong văn hóa Sa Huỳnh. Bài tham gia Hội thảo Tiếp xúc và tiếp biến trong văn hóa Sa Huỳnh, Viện Khảo cổ học, Hà Nội, tháng 9 năm 2006.
16.Lâm Thị Mỹ Dung, Nguyễn Anh Thư và TT,
Đồ gốm Champa 10 thế kỷ đầu CN từ tiếp cận khảo cổ học xã hội và khảo cổ học kỹ thuật, ĐTNCKH do TT Hỗ trợ Nghiên cứu châu Á, ĐHQG Hà Nội tài trợ (2009-2011), Hà Nội.
17.Hà Văn Tấn,
Óc Eo – Những yếu tố nội sinh và ngoại sinh, In trong Văn hóa Óc Eo và các văn hóa đồng bằng sông Cửu Long, Sở VHTT An Giang xuất bản, Long Xuyên, 1984.
18.Glover. I.,
Recent Archaeological Evidences for Early Maritime Contacts between India and Southeast Asia. In H.P.Ray and J.F. Salled (eds),
Tradition and Archaeology: Early Maritime Contacts in the Indian Ocean, New Delhi: Manohar, 1994.
19.Nguyễn Kim Dung,
Di chỉ Gò Cấm và con đường tiếp biến văn hóa sau Sa Huỳnh khu vực Trà Kiệu, Khảo cổ học, số 6, Hà Nội, 2005.
20.Southworth W. A.,
The Coastal States of Champa. In Ian Glover and Peter Bellwood, Southeast Asia from Prehistory to History, RoutledgeCurzon, 2004.
Nguồn: Khoa Lịch sử, Một chặng đường nghiên cứu lịch sử (2006-2011), Nxb Thế giới, Hà Nội, 2001, tr.297-318.
[1] Higham Ch.,
The Archaeology of Mainland Southeast Asia, Cambridge University Press, Cambridge, 1989.
Stark Miriam T.,
The Transition to History in the Mekong Delta: A View from Cambodia, International Journal of Historical Archaeology, Vol.2, No.3:, 1998, 175-203.
http:www.seacrchc.org/media/pdfiles/ChamBook.pdf
Stark. M and Sovath. B,
Recent Research on the Emergence of Early Historic States in Cambodia’s Lower Mekong Delta, Bulletin of the Indo-Pacific Prehistory Association 21(5), 2001, 85-98.
[2] J.Wisseman Christie,
State Formation in the Early Maritime Southeast Asia: A Consideration of the Theories and the Data, Bijdragen tot de Taal-, land-en Volkenkunde 151 (1995), no:2, Leiden, 235.
[3] Kipp R.S., and Schortman E. M.,
The Political Impact of Trade in Chiefdoms, American Anthropologist, 1989, 91-2: 371.
[4] Wolters. O. W,
History, Culture, and Region in Southeast Asian Perspectives, Revised Edition, SEAP, Cornell Southeast Asian Program Publications, 2004, 26.
[5] Diệp Đình Hoa,
Những con đường khám phá, Nxb. KHXH, Hà Nội, 2003, tr.662.
[6] Hà Văn Tấn,
Theo dấu văn hóa cổ, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1997, tr.730.
[7] Văn hóa Sa Huỳnh: Văn hóa khảo cổ thuộc thời đại sắt sớm ở Miền Trung Việt Nam – Đặc điểm chính của văn hóa này là táng thức mộ chum. Sử dụng một số lượng lớn đồ bằng sắt và đồ trang sức bằng thủy tinh, mã não, cacnelian, thạch anh tím, nefrit. Địa bàn phân bố trải dài từ Thừa Thiên – Huế đến Đông Nam Bộ.
[8] J.Wisseman Christie,
State Formation in the Early Maritime Southeast Asia: A Consideration of the Theories and the Data, Bijdragen tot de Taal-, land-en Volkenkunde 151 (1995), no:2, Leiden, p.277.
[9] Bronson Bennet,
Exchange at the Upstream and Downstream Ends: Notes towards a Functional Model of the Coastal States in SEA. In Hutterer K.C., (ed.),
Economic Exchange and Social Interactions in SEA, Papers on Michigan South and Southeast Asia, Số 13, Ann Arbor, 1977, 39-52.
[10] Có thể tham khảo thêm một số nghiên cứu khác trong khu vực về vấn đề này. Giá trị của một hiện vật tùy táng được xác định dựa trên chất liệu/nguyên liệu, nguồn nguyên liệu; thời gian và công sức chế tác; ý nghĩa biểu trưng văn hóa; cách thức phân phối hiện vật và định giá xã hội mà cộng đồng gán cho hiện vật…Ví dụ, dựa trên những tiêu chí này, đồ tùy táng ở Philipin được định giá bằng cách tính điểm từng loại chất liệu/kiểu hiện vật theo thang điểm 1-10. Theo đó trong thời kỳ sơ sử hiện vật đồng có giá trị cao nhất (9 điểm), đồ sắt (8 điểm), đồ gốm chỉ có 4 điểm (Grace Barretto-Teroso,
Burial Goods in the Philippines: An Attempt to Quantify Prestige Values [
Đồ tùy táng ở Philipin: Thử định lượng những giá trị quý hiếm], Southeast Asian Studies [Nghiên cứu Đông Nam Á], Vol. 41, No. 3, December 2003, 299-315).
[11] Văn hóa Sa Huỳnh với sự phân bố ban đầu và năng động của mình ở duyên hải cùng với nhiều quan hệ tiếp xúc bên ngoài đã dẫn đến sự hình thành dạng xã hội – văn hóa –
xã hội pasisir (socio-cultural type –
pasisir societies) và những xã hội này sau đó đã chuyển biến thành một số chính thể Champa thời kỳ lịch sử sớm và muộn hơn sau đó đã tiếp nhận Hồi giáo thông qua những trao đổi buôn bán mạnh mẽ với Trung Hoa ở phía Bắc, Philippin ở phía Đông, Ấn Độ ở phía Tây (Ian Glover,
Sa Huynh – A Sociocultural Type – An Attempt to Develop an Interpretative Framework for a Late Prehistoric Society Drawing on Archaeology, Ethnography and Analogy, the paper presented at 19th IPPA Congress, Hanoi, 2009).
[12] Lâm Thị Mỹ Dung,
Nghiên cứu quá trình chuyển biến từ sơ sử sang sơ kỳ lịch sử ở miền Trung Trung bộ và Nam Trung bộ Việt Nam, Đề tài NCKH trọng điểm, ĐHQG, mã số QGTĐ.06.07, Tư liệu khoa Lịch sử và Tư liệu Bảo tàng Nhân học, trường ĐHKHXH & NV, Hà Nội, 2008.
[13] Những nghiên cứu khảo cổ ở địa điểm Gò Cấm cung cấp những chứng cứ vật chất về sự tiếp nối trong sản xuất đồ gốm giữa Sa Huỳnh và Champa (Nguyễn Kim Dung),
Di chỉ Gò Cấm và Trà Kiệu trong quá trình chuyển biến sơ sử – sơ kỳ lịch sử ở miền Trung Việt Nam. Bài tham dự Hội thảo khoa học của Đề tài QGTĐ, mã số QGTĐ. 06.07 Hà Nội tháng 11 năm 2007.
[14] Theo kết quả nghiên cứu của ĐTNCKH
Đồ gốm Champa 10 thế kỷ đầu CN từ tiếp cận khảo cổ học xã hội và khảo cổ học kỹ thuật, gốm thô Sa Huỳnh và gốm thô Champa có bề ngoài giống nhau nhưng trên thực tế gốm thô Champa làm từ nguyên liệu đất sét trầm tích còn gốm thô Sa Huỳnh làm từ nguyên liệu chưa được tuyển chọn và có nguồn gốc chủ yếu từ sản phẩm phong hóa của đá magma axit (granit, riolit) được tích tụ dưới dạng proluvi, deluvi (bồi tích). Lượng cát trong gốm Sa Huỳnh lớn (trên 60%) (Lâm Thị Mỹ Dung và TT,
Đồ gốm Champa 10 thế kỷ đầu CN từ tiếp cận khảo cổ học xã hội và khảo cổ học kỹ thuật, ĐTNCKH do TT Hỗ trợ Nghiên cứu châu Á, ĐHQG Hà Nội tài trợ (2009-2011), Hà Nội.)
[15] Lâm Thị Mỹ Dung,
Đồ gốm thiên niên kỷ 1 SCN ở miền Trung Việt Nam, Khảo cổ học, số 1, Hà Nội, tr.50-70.
[16] Lam Thi My Dzung,
Sa Huynh Regional and Inter-Regional Interactions in the Thu Bon Valley, Quang Nam Province, Central Vietnam, Bulletin of the Indo-Pacific Prehistory Association 29, 2009, 68-75.
[17] Lâm Thị Mỹ Dung,
Một số ý kiến xung quanh vấn đề giao lưu và tiếp biến trong văn hóa Sa Huỳnh, Bài tham gia Hội thảo “Tiếp xúc và tiếp biến trong văn hóa Sa Huỳnh, Viện Khảo cổ học, Hà Nội, Tháng 9 năm 2009.
[18] Lam Thi My Dzung,
Sa Huynh Regional and Inter-Regional Interactions in the Thu Bon Valley, Quang Nam Province, Central Vietnam, Bulletin of the Indo-Pacific Prehistory Association 29, 2009, 68-75.
[19] Wolters. O. W,
History, Culture, and Region in Southeast Asian Perspectives, Revised Edition, SEAP, Cornell Southeast Asian Program Publications, 2004, 25.
[20] Hà Văn Tấn, Óc Eo –
Những yếu tố nội sinh và ngoại sinh, In trong Văn hóa Óc Eo và các văn hóa đồng bằng sông Cửu Long, Sở VHTT An Giang xuất bản, Long Xuyên, 1984, tr.230.
[21] Theo Belina Berenice thì trong việc sản xuất đồ trang sức ở Đông Nam Á đầu Công nguyên đã có những người thợ Ấn Độ đến làm việc tại Đông Nam Á. Theo Nguyễn Kim Dung (Viện Khảo cổ học), cho tới nay chưa có bằng chứng về sản xuất trang sức bằng mã não tại chỗ, nhưng sản xuất trang sức bằng thủy tinh tại chỗ thì đã có rất nhiều bằng chứng trong các địa điểm khảo cổ học.
[22] Glover. I.,
Recent Archaeological Evidences for Early Maritime Contacts Between India and Southeast Asia. In H.P.Ray and J.F. Salled (eds),
Tradition and Archaeology: Early Maritime Contacts in the Indian Ocean, New Delhi: Manohar, 1994, 160; Lam Thị My Dzung,
Sa Huynh Regional and Inter-Regional Interactions in the Thu Bon Valley, Quang Nam Province, Central Vietnam, Bulletin of the Indo-Pacific Prehistory Association 29, 2009, 68-75.
[23] Nguyễn Kim Dung,
Di chỉ Gò Cấm và con đường tiếp biến văn hóa sau Sa Huỳnh khu vực Trà Kiệu, Khảo cổ học, số 6, Hà Nội, 2005, tr. 41, hình 1.3.
[24] Ở miền Trung Việt Nam, cho tới nay gốm Nam Ấn mới chỉ có 01 mảnh loại rulet ở Trà Kiệu, một vài mảnh tương tự như thế ở Gò Cấm và có thể loại gốm đen bóng kiểu nhựa cây có những đường khắc vạch ở Hoà Diêm (khai quật năm 2002). Loại bát có đáy nổi chóp ở giữa và gốm văn in dập vẫn chưa phát hiện được.
[25] Southworth W. A.,
The Coastal States of Champa. In Ian Glover and Peter Bellwood, Southeast Asia from Prehistory to History, RoutledgeCurzon, 2004, 218.
[26] Vào những năm đầu Công nguyên, trong sử chỉ thấy nói về hai vị Thái thú là Tích Quang ở Giao Chỉ và Nhâm Diên ở Cửu Chân. Không có tư liệu về Nhật Nam.
Đại Việt sử ký toàn thư (ĐVSKTT), Ngoại kỷ, quyển 2 chép năm Canh Ngọ (năm 111 TCN), bấy giờ nước Việt ta sai ba quan sứ (ở năm 198 TCN), (nhưng Toàn thư đã ghi Triệu Vũ Đại sai hai sứ coi giữ hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân) mà ở đây lại nói sai ba quan sứ đem sổ hộ của ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Lời cẩn án của
Cương mục (TB 2, 2b) dẫn sách
Thuỷ kinh chú của Lịch Đào Nguyên cũng chép việc tương tự để đính chính điều trên đây: Chỉ có hai sứ ở hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân, không nói đến quận Nhật Nam. Xem ra, đối với đất phía nam, đặc biệt là cực nam như huyện Tượng Lâm thì chính sách cai trị của nhà Hán khác hơn so với những vùng còn lại và ảnh hưởng của chính quyền theo cách nói của một số nhà nghiên cứu là “hữu danh, vô thực” và điều đó thể hiện qua vai trò nổi bật của thủ lĩnh địa phương trong tổ chức và điều hành xã hội lúc bấy giờ. Những xung đột, cướp phá của người Tượng Lâm đã được chính quyền Hán dùng chính sách chia rẽ nội bộ, mua chuộc phủ dụ và đặc biệt dùng Cửu Chân và Giao Châu để kháng cự chứ không dùng chính quyền Trung ương. Trong sử ghi chính quyền nhà Hán (Đông Hán) đã giao cho sứ coi sóc Giao Chỉ (trị sở Luy Lâu) kiểm soát toàn bộ các quận huyện trực thuộc nhà Hán ở phía Nam và như vậy đã làm giảm bớt rất nhiều quyền lực từ chính quyền trung ương.
PGS.TS. Lâm Thị Mỹ Dung
Nguồn: Khoa Lịch sử, Một chặng đường nghiên cứu lịch sử (2006-2011), Nxb Thế giới, Hà Nội, 2001, tr.297-318.
Theo Website Khoa Lịch sử, khoalichsu.ussh.vnu.edu.vn, 24-09-2013.